Gỡ vướng pháp lý cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp, cách nào?

(BĐT) - Đóng góp vào thành tựu nổi bật trong thu hút đầu tư của cả nước, nhưng nhà đầu tư trong khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) hiện vẫn phải đối mặt với không ít vướng mắc về pháp lý, thủ tục.

Lượng vốn FDI đầu tư vào các khu công nghiệp hàng năm chiếm khoảng 60 - 70% tổng vốn FDI của cả nước. Ảnh: Lê Tiên
Lượng vốn FDI đầu tư vào các khu công nghiệp hàng năm chiếm khoảng 60 - 70% tổng vốn FDI của cả nước. Ảnh: Lê Tiên
62.jpg

Những vướng mắc này không chỉ làm phát sinh chi phí, kéo dài thời gian, mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, kế hoạch kinh doanh và niềm tin của nhà đầu tư. Luật sư Nguyễn Hồng Chung - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Luật TNHH Davilaw cho biết như vậy trong cuộc trao đổi với phóng viên ấn phẩm Đấu thầu.

Từng đồng hành với nhiều nhà đầu tư, ông nhận định thế nào về môi trường đầu tư kinh doanh trong các KCN, KKT?

Theo thống kê, hàng năm, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tư vào KCN chiếm khoảng 60 - 70% tổng vốn FDI của cả nước. Vốn đầu tư thực hiện trong KCN, KKT trung bình những năm gần đây đạt khoảng 221,33 tỷ USD, trong đó, vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT khoảng 9,33 tỷ USD và vốn đầu tư các dự án trong KCN, KKT là 212 tỷ USD. Đây là những thành tựu nổi bật trong thu hút đầu tư, cho thấy vai trò của việc thu hút đầu tư tại KCN, KKT đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình hỗ trợ pháp lý, đồng hành với nhiều nhà đầu tư của tôi cho thấy, hiện nhà đầu tư trong KCN, KKT vẫn gặp không ít vướng mắc về pháp lý, tập trung vào 3 lĩnh vực chính gồm: thủ tục đầu tư, chính sách thuế và thủ tục hải quan.

Trong bối cảnh Chính phủ đã và đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, điển hình là việc ban hành Nghị quyết số 66/NQ-CP về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc pháp lý trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đây là cơ hội để chúng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong các KCN, KKT, góp phần tạo động lực cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.

Trong các vướng mắc, ông đánh giá thế nào về thủ tục đầu tư tại các KCN, KKT hiện nay?

Mặc dù quy trình cấp phép đầu tư tại KCN, KKT đã có nhiều cải tiến, song vẫn tồn tại những điểm nghẽn, đặc biệt là sự chồng chéo và thời gian xử lý kéo dài của một số thủ tục quan trọng, gây khó khăn đáng kể cho nhà đầu tư. Trước hết là sự chồng chéo và thiếu nhất quán giữa các luật như: Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường. Đây là những đạo luật cốt lõi chi phối toàn bộ vòng đời của một dự án đầu tư. Tuy nhiên, các quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền chưa thực sự đồng bộ và liên thông. Chẳng hạn, việc thẩm định chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư, thẩm định nhu cầu sử dụng đất theo Luật Đất đai, thẩm định thiết kế cơ sở theo Luật Xây dựng và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường thường diễn ra độc lập, không có sự phối hợp chặt chẽ về mặt thời gian và nội dung. Điều này buộc nhà đầu tư phải thực hiện nhiều bước lặp lại, nộp hồ sơ trùng lặp, hoặc chờ đợi lẫn nhau giữa các khâu, làm chậm đáng kể tiến độ triển khai dự án.

Bên cạnh đó, thời gian xử lý thủ tục tiếp cận đất đai vẫn kéo dài và thiếu minh bạch. Từ khâu chấp thuận chủ trương đầu tư, phê duyệt quy hoạch, đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... mỗi bước đều tiềm ẩn nguy cơ kéo dài thời gian.

Ngoài ra, thủ tục về phòng cháy chữa cháy (PCCC) cũng là một rào cản khi việc thẩm duyệt thiết kế PCCC và nghiệm thu về PCCC đôi khi còn chậm trễ, thiếu hướng dẫn cụ thể và thống nhất từ cơ quan quản lý nhà nước về PCCC, buộc doanh nghiệp phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm chậm tiến độ bàn giao và vận hành công trình.

Về thuế và hải quan, thực tế nhà đầu tư tại các KCN, KKT đang cảm nhận như thế nào, thưa ông?

Các quy định về thuế mặc dù đã được cải thiện, nhưng đôi khi còn thiếu rõ ràng và có sự thay đổi, tạo ra rủi ro và gánh nặng cho doanh nghiệp nói chung và nhà đầu tư trong KCN, KKT nói riêng. Chẳng hạn, chính sách ưu đãi đầu tư quy định điều kiện hưởng ưu đãi thuế, đặc biệt là ưu đãi cho dự án công nghệ cao, dự án khuyến khích đầu tư chưa thực sự rõ ràng, áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan thuế địa phương, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch tài chính và tận dụng chính sách ưu đãi. Bên cạnh đó, thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng đối với dự án đầu tư mới, đặc biệt là các dự án FDI hiện vẫn còn phức tạp và thời gian giải quyết kéo dài, không chỉ gây khó khăn về tài chính cho nhà đầu tư mà còn làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Ngoài ra, theo phản ánh, nhiều nhà đầu tư hiện vẫn gặp vướng mắc trong thủ tục hải quan như: phân loại hàng hóa và xác định mã HS. Nhiều trường hợp chưa thống nhất về phân loại hàng hóa, dễ gây tranh chấp và bị truy thu thuế. Điều này tạo ra rủi ro pháp lý và tài chính không lường trước cho nhà đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều loại vật tư, máy móc thiết bị phức tạp. Mặt khác, các quy định về kiểm tra chuyên ngành còn chồng chéo, chưa có sự phối hợp đồng bộ, thiếu liên thông giữa các bộ, ngành liên quan, dẫn đến ách tắc hàng hóa tại cửa khẩu, làm tăng chi phí lưu kho bãi, phát sinh các chi phí không đáng có và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn cầu…

Theo ông, giải pháp nào có thể tháo gỡ các “điểm nghẽn” nêu trên?

Để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, theo tôi cần hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật. Trước hết, cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, nghị định, thông tư có liên quan để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và minh bạch, đặc biệt là sự hài hòa giữa Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường. Mục tiêu là tạo ra một quy trình liên thông, rút ngắn tối đa thời gian cho nhà đầu tư.

Tiếp đó là cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số theo hướng tiếp tục cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết, đặc biệt là rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ liên quan đến đất đai (giải phóng mặt bằng, xác định giá đất) và xây dựng (thẩm định thiết kế, cấp phép), cần có cơ chế giám sát chặt chẽ và công khai thời gian xử lý hồ sơ. Cần xây dựng cơ chế "một cửa liên thông" thực chất và hiệu quả hơn nữa tại các ban quản lý KCN, KKT, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, thông suốt giữa các sở, ngành trong việc giải quyết thủ tục, để doanh nghiệp chỉ cần nộp một bộ hồ sơ duy nhất cho nhiều thủ tục liên quan.

Cùng với đó, rà soát và hoàn thiện chính sách thuế, hải quan theo hướng hiện đại hóa, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, tăng cường ứng dụng công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) trong công tác quản lý rủi ro, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, hoàn thuế giá trị gia tăng… Đồng thời, tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến doanh nghiệp và nâng cao năng lực đội ngũ công chức, kịp thời nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh ngay từ cơ sở.

Kết nối đầu tư