Vùng Đồng bằng sông Hồng định hướng đi đầu trong đổi mới sáng tạo, kinh tế số

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Vùng Đồng bằng sông Hồng được định hướng sẽ đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số. Trong đó, Hà Nội sẽ trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu của cả nước và khu vực với hạt nhân là Khu công nghệ cao Hòa Lạc, các viện nghiên cứu, trường đại học.
Thời gian tới sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung tại vùng Đồng bằng sông Hồng
Thời gian tới sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung tại vùng Đồng bằng sông Hồng

Đây là định hướng lớn, quan trọng nhận được nhiều tham luận, góp ý tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ-TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xúc tiến đầu tư vùng được tổ chức ngày 12/2/2023 tại Quảng Ninh.

Triển khai các giải pháp khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo

Ông Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho biết, sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng, toàn vùng có trên 500 tổ chức KH&CN, 291 tổ chức nghiên cứu phát triển (R&D), có 14/17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; tốc độ đổi mới công nghệ (giai đoạn 2016 - 2020) đạt 51,7%, tỷ lệ đóng góp của KH&CN (thông qua chỉ số TFP) vào tăng trưởng kinh tế vùng giai đoạn 2016 - 2020 đạt 48,1%; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển mạnh mẽ, trong đó hạt nhân là Thủ đô Hà Nội.

Nhiều dự án, đề án KH&CN liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ chức KH&CN đã được triển khai. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào các dự án sản xuất công nghiệp hiện đại, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành công như: Tập đoàn Samsung, Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn TH, Công ty Dabaco (Bắc Ninh), Công ty Sao Thái Dương, Công ty CP Đồng Giao (Ninh Bình)... Nhiều công nghệ hiện đại, tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là trong nông nghiệp, được triển khai, ứng dụng, mang lại hiệu quả và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng. Thông qua việc áp dụng các kỹ thuật hiện đại, tiến bộ KH&CN đã tạo sự thay đổi mạnh mẽ để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ngày càng có nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần thực hiện tái cơ cấu xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại.

Tuy nhiên, tiềm lực KH&CN của một số tổ chức KH&CN do UBND các tỉnh, thành phố quản lý còn yếu (cơ sở vật chất, trang thiết bị vừa thiếu vừa lạc hậu; nhân lực trình độ chưa cao, chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu chuyển giao kỹ thuật); đầu tư cho KH&CN còn hạn chế; tỷ lệ chi cho KH&CN chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của vùng; chưa có nhiều sản phẩm KH&CN mang tính đột phá được thương mại hóa, doanh nghiệp chưa trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nội địa chủ yếu vẫn ở mức trung bình nên khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước chưa cao; chưa đề xuất và thực hiện được các nhiệm vụ KH&CN lớn để giải quyết các vấn đề liên tỉnh, liên vùng, việc liên kết hoạt động KH&CN giữa các địa phương trong vùng cũng như ngoại vùng chưa thực sự chặt chẽ.

Nhằm triển khai các giải pháp KH&CN, đổi mới sáng tạo thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, ông Huỳnh Thành Đạt cho rằng, trước tiên cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH&CN. Đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, triển khai các nhiệm vụ KH&CN các cấp theo hướng công khai, minh bạch, khách quan, đơn giản hóa thủ tục hành chính; chuyển đổi số quy trình quản lý, cơ sở dữ liệu các nguồn lực KH&CN và đổi mới sáng tạo; đổi mới chế độ quản lý tài chính, thanh quyết toán, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc chuyển giao tài sản hình thành trong nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước. Tái cơ cấu các chương trình, nhiệm vụ KH&CN theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng. Các địa phương trong vùng đưa các chỉ tiêu phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo, trong đó có chỉ tiêu tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, vào nội dung chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển của ngành, địa phương.

Về phát triển hạ tầng, người đứng đầu Bộ KH&CN nhấn mạnh, cần phát triển hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo nhằm phát triển, tích hợp hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo với các khu công nghệ cao, trường đại học, viện nghiên cứu.

Tiếp tục hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung. Phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc theo mô hình mở, là đầu mối quan trọng của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, có hạ tầng hiện đại và thông minh, là nơi thúc đẩy phát triển chuỗi hoạt động tri thức và công nghệ giữa trường đại học, tổ chức nghiên cứu và triển khai, doanh nghiệp và thị trường. Phát triển Khu công nghệ cao Hà Nam, các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở các địa phương như: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Quảng Ninh, Hưng Yên...

Ngoài ra, xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và khu vực với hạt nhân là Khu công nghệ cao Hoà Lạc, các viện nghiên cứu, trường đại học. Xây dựng Hải Phòng trở thành Trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển KH&CN với các ngành nghề hàng hải, đại dương học, kinh tế biển.

Về phía TP. Hà Nội, ông Trần Sỹ Thanh, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội nêu rõ, mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố thông minh, hiện đại, có bản sắc; là động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước. Trong đó, tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng; phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô; quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, tận dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với đổi mới sáng tạo nhằm tái cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế Thủ đô nhanh, bền vững.

Cụ thể, ông Trần Sỹ Thanh nhấn mạnh, tỷ trọng kinh tế số trong GRDP của Hà Nội vào năm 2030 sẽ chiếm 40% (năm 2025 đạt 30%). Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu các cơ chế, chính sách đột phá trong xây dựng hạ tầng số, hạ tầng phục vụ KH&CN và đổi mới sáng tạo, coi KH&CN, đổi mới sáng tạo là lực lượng sản xuất chính, là động lực hàng đầu, làm tiền đề và điều kiện tiên quyết cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Hà Nội phấn đấu trở thành trung tâm của vùng về phát triển công nghệ lõi, công nghệ số, xây dựng các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia liên kết với các trường, viện, cơ sở nghiên cứu trên địa bàn Thành phố; đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, ứng dụng KH&CN.

Tăng cường đầu tư, sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ

Trên cơ sở định hướng cụ thể cho vùng về phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số, đầu tư cho phát triển lĩnh vực này như thế nào trong thời gian tới là vấn đề rất được quan tâm.

Ông Huỳnh Thành Đạt đề xuất, cần tăng cường đầu tư, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho KH&CN, đổi mới sáng tạo của vùng. Theo đó, bảo đảm chi cho lĩnh vực này từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KH&CN. Tăng số lượng và quy mô quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp; tạo thuận lợi tối đa để khuyến khích doanh nghiệp thành lập quỹ, sử dụng hiệu quả kinh phí của quỹ đầu tư cho hoạt động KH&CN. Hoàn thiện cơ chế đối tác công tư, huy động vốn đầu tư, các nguồn lực đầu tư cho KH&CN và đổi mới sáng tạo.

Về phía Hà Nội, ông Trần Sỹ Thanh thông tin, Thành phố sẽ tập trung ưu tiên xây dựng hạ tầng thông tin và truyền thông, bảo đảm an toàn thông tin mạng; phát triển đồng bộ và liên kết chặt chẽ với nhau để tạo thành một chỉnh thể thống nhất, hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ số tiên tiến; có khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin và truyền thông tin cậy với giá cả phù hợp cho mọi người, mọi lúc, mọi nơi; đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tận dụng tối đa thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0, tiếp tục hoàn thiện mô hình, cơ chế, chính sách để tạo sự phát triển đột phá đối với các khu công nghệ cao, phát triển các khu đô thị sáng tạo đạt đẳng cấp quốc tế.

Chuyên đề