VCCI: Chưa cần thiết ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia kiểm soát khí nhà kính

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Trên cơ sở ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp (DN), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa gửi góp ý đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 119/2025/NĐ-CP). Theo VCCI, hiện nay chưa cần thiết ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thu gom, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất khí được kiểm soát.

VCCI: Chưa cần thiết ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia kiểm soát khí nhà kính

Yêu cầu cao hơn cam kết quốc tế

Khoản 3 Điều 28 Nghị định 06/2020/NĐ-CP yêu cầu việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ các chất được kiểm soát phải đáp ứng quy trình theo quy định. Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường (cũ) đã ban hành Thông tư 20/2023/TT-BTNMT, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia 76:2023/BTNMT về thu gom, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất được kiểm soát. Trong quá trình xây dựng văn bản, cơ quan soạn thảo cho rằng việc ban hành quy chuẩn là cần thiết nhằm thực thi Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi, bổ sung Kigali; theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ cắt giảm 80% lượng tiêu thụ môi chất lạnh nhóm HFC vào năm 2045.

Tuy nhiên, theo VCCI, các cam kết quốc tế không yêu cầu Việt Nam phải ban hành quy chuẩn này. Để thực hiện nghĩa vụ cắt giảm lượng chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal, từ năm 2005 Việt Nam đã áp dụng chính sách hạn ngạch nhập khẩu, được thể hiện tại Thông tư liên tịch 14/2005/TTLT-BTM-BTNMT và Thông tư liên tịch 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT. Hai văn bản này quy định lộ trình giảm dần hạn ngạch nhập khẩu, phù hợp với cam kết quốc tế và đã được Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) ghi nhận là đáp ứng đầy đủ yêu cầu.

Theo Nghị định thư Montreal, lượng tiêu thụ các chất được kiểm soát được tính bằng tổng lượng sản xuất và nhập khẩu trừ đi lượng xuất khẩu. Như vậy, chỉ cần quản lý lượng sản xuất và nhập khẩu là đủ để thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Nghị định thư không yêu cầu phân loại lượng tiêu thụ thành phần thu gom, lưu trữ, tái chế hay không tái chế. Do đó, việc Việt Nam đưa thêm yêu cầu về thu gom, lưu trữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất được kiểm soát, bên cạnh chính sách hạn ngạch đang được áp dụng hiệu quả, là vượt quá yêu cầu quốc tế.

VCCI cũng cho rằng, việc thu gom, lưu trữ và tái chế đúng quy trình về nguyên tắc là có lợi về môi trường. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong nhiều biện pháp để giảm lượng tiêu thụ các chất được kiểm soát. Với chính sách hạn ngạch, DN và người dân đã có động lực tự cân đối, tiết kiệm và hạn chế thất thoát khí HFC để bảo đảm đủ nguồn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi hạn ngạch bị siết lại, DN tự nhiên sẽ chủ động áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu tổn thất, không cần thêm các nghĩa vụ pháp lý mới. Ngược lại, nếu hạn ngạch vẫn rộng, dù có quy định về trình độ nhân lực hay trang thiết bị, DN cũng khó có động lực để đầu tư nhằm tránh thất thoát.

Hạn ngạch giảm, chi phí cao sẽ khiến DN tự điều chỉnh

Trên thực tế, hạn ngạch nhập khẩu các chất được kiểm soát của Việt Nam đang giảm mạnh. Nếu giai đoạn 2015–2019 được phép nhập 3.600 tấn thì giai đoạn 2020–2022 chỉ còn 2.600 tấn. Dự kiến giai đoạn 2025–2029 hạn ngạch giảm xuống 1.300 tấn và từ sau năm 2030 chỉ còn duy trì ở mức rất thấp.

Theo phản ánh của các DN, việc giảm hạn ngạch từ 3.600 tấn (2019) xuống 2.600 tấn (2020) đã khiến giá thị trường của nhiều loại khí được kiểm soát tăng gấp đôi. Giá thành tăng đã buộc các DN chủ động hạn chế rò rỉ khí và tăng cường thu gom, tái chế, tái sử dụng để tiết kiệm chi phí. Nếu hạn ngạch tiếp tục giảm còn 1.300 tấn vào năm 2025, giá thị trường của các loại khí này có thể tiếp tục tăng gấp đôi hoặc gấp ba. Khi chi phí đủ lớn, DN chắc chắn sẽ tìm mọi cách để giảm thất thoát khí HFC mà không cần thêm bất kỳ biện pháp quản lý bổ sung nào từ phía Nhà nước.

Theo VCCI, trong bối cảnh chính sách hạn ngạch tiếp tục phát huy hiệu quả, việc viện dẫn yêu cầu thực thi Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi Kigali để lý giải sự cần thiết của Quy chuẩn QCVN 76:2023/BTNMT là chưa thuyết phục.

Cùng với đó, VCCI cho biết các yêu cầu kỹ thuật của Quy chuẩn có thể làm phát sinh chi phí xã hội không cần thiết. Các thiết bị như máy thu hồi, bình chứa, cân định lượng, bơm chân không, thiết bị kiểm tra rò rỉ, đồng hồ đo áp suất – cùng với yêu cầu kỹ thuật viên phải có trình độ trung cấp hoặc chứng chỉ đào tạo – đều khiến chi phí DN điện lạnh tăng thêm khoảng 15–20%. Việc thiếu kỹ thuật viên đạt chuẩn cũng có nguy cơ làm tăng thời gian chờ đợi của khách hàng vào mùa cao điểm, đặc biệt tại các khu vực xa trung tâm, nơi vốn khan hiếm nhà cung cấp dịch vụ điện lạnh.

Từ các phân tích trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc lại việc duy trì Quy chuẩn này, tránh áp đặt thêm nghĩa vụ pháp lý vượt yêu cầu của các cam kết quốc tế, đồng thời giảm bớt gánh nặng chi phí cho DN và người dân.

Kết nối đầu tư