|
| Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tham gia thảo luận tại tổ. |
Một trong những điểm nổi bật tại Dự thảo Luật là xây dựng thủ tục phục hồi độc lập; rút gọn các thủ tục phá sản; ứng dụng công nghệ số và hoàn thiện vai trò các bên liên quan như quản tài viên và doanh nghiệp quản lý tài sản; cơ chế hỗ trợ của nhà nước; mở rộng phạm vi áp dụng, bao gồm phá sản cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo và Ủy ban Kinh tế và Tài chính tiếp tục rà soát những vấn đề tiềm ẩn có thể xảy ra.
Một là, rủi ro lạm dụng thủ tục phục hồi trong trường hợp việc ưu tiên phục hồi độc lập có thể bị lợi dụng để kéo dài thời gian, tránh phá sản thực sự, dẫn đến thất thoát tài sản hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ.
Hai là, tác động đến ngân sách nhà nước. Theo đó, việc quy định tạm ứng chi từ ngân sách có thể gây lãng phí, không kiểm soát được nguồn chặt chẽ. Do đó, cần đánh giá tác động tài chính, quy định nguồn kinh phí cụ thể theo Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Chín.
Ba là, thẩm quyền xử lý tranh chấp. Việc giao cho Tòa án giải quyết toàn bộ tranh chấp liên quan là tích cực nhưng có thể dẫn đến chồng chéo với các luật khác như Bộ luật Dân sự, Luật Trọng tài... nên cần tiếp tục rà soát để tránh mâu thuẫn.
Bốn là, thiếu quy định chi tiết về bán tài sản. Dự luật mới chỉ quy định nguyên tắc và giao cho Chính phủ hướng dẫn, điều này có thể gây chậm trễ trong triển khai xử lý tài sản.
Năm là, áp dụng cho doanh nghiệp nước ngoài. Việc mở rộng phạm vi là tốt, nhưng cần hướng dẫn cụ thể để tránh phức tạp hóa các thủ tục, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến luật pháp quốc tế.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị, dự luật cần tăng cường cơ chế giám sát, chống lạm dụng. Nên bổ sung quy định thời gian tối đa cho thủ tục phục hồi (ví dụ không quá 6 tháng hoặc 12 tháng), kèm theo cơ chế giám sát độc lập từ cơ quan nhà nước hoặc hội đồng chủ nợ.
Bên cạnh đó, tập trung hoàn thiện quy định về tài chính, ngân sách. Cần quy định rõ ràng tiêu chí tạm ứng chi phí từ ngân sách để tránh lãng phí. Chỉ nên áp dụng cho doanh nghiệp không còn tài sản nhưng có tiềm năng phục hồi, kết hợp với cơ chế hoàn trả sau khi bán tài sản. Đồng thời, cần tích hợp các chính sách hỗ trợ khác như giảm, hoãn thuế, đảm bảo đồng bộ với các luật thuế hiện hành, đây là vấn đề hết sức quan trọng.
Liên quan đến thủ tục phục hồi phá sản, dự thảo Luật mở rộng phạm vi điều chỉnh theo hướng xây dựng, hoàn thiện thủ tục phục hồi phá sản là thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản. Theo đại biểu Nguyễn Văn Quân (Cần Thơ), đây là thay đổi quan trọng so với luật hiện hành nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp, hợp tác xã đang khó khăn về tài chính có thể tái cơ cấu, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh trước khi phải chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó cho thấy, dự thảo Luật hướng mục tiêu vào con nợ, chủ yếu là ưu tiên giúp doanh nghiệp có cơ hội tái cấu trúc phục hồi sản xuất.
Đại biểu Lê Minh Nam (Cần Thơ) cũng đồng tình với việc cần thiết có thủ tục phục hồi và phải quy định tại Luật thật rõ ràng để tổ chức thực hiện trong thời gian tới. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là tính khả thi, hiệu quả của chính sách này. Nêu thực tiễn ở Việt Nam, đại biểu Lê Minh Nam cho biết, tính khả thi của thủ tục phục hồi còn hạn chế. Bởi khi doanh nghiệp đến tình trạng "bị dọa phá sản" thì thường đã rơi vào mất thanh khoản nghiêm trọng, "vận hết các chiêu" để chống đỡ. Thêm vào đó, thông tin tài chính của các đơn vị này thường cũng không tạo được niềm tin về tính minh bạch nữa.
Do đó, để triển khai thủ tục phục hồi hiệu quả đòi hỏi phải có những quy định thật đầy đủ, chặt chẽ. Đại biểu Lê Minh Nam đề nghị, phải xem xét, lượng hóa cụ thể các tiêu chí, căn cứ, cơ sở để xác định doanh nghiệp hợp tác xã đủ điều kiện phục hồi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia phục hồi.
Đại biểu Lê Minh Nam cũng đề nghị cần có quy định về việc xây dựng một hệ thống cảnh báo tài chính sớm để phát hiện doanh nghiệp có nguy cơ, từ đó khuyến khích họ chủ động nộp đơn xin phục hồi trước khi tình trạng trở nên quá nặng.
Đại biểu Nguyễn Văn Quảng (TP. Đà Nẵng) cho rằng, cần phải xem xét thấu đáo dự thảo Luật sửa đổi lần này. Theo đó, về việc bổ sung thủ tục phục hồi đối với hoạt động doanh nghiệp, đại biểu đề nghị, cần đánh giá về tính khả thi, hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả về quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Văn Quảng chỉ rõ khó khăn và vướng nhất hiện nay chính là thời gian để thực hiện một vụ phá sản trung bình sẽ kéo dài từ khoảng 18 tháng đến 24 tháng, thậm chí có những vụ đến 36 tháng, tức là khoảng 3 năm, thậm chí đến 4 năm mới giải quyết xong một vụ phá sản. “Về trình tự, thủ tục hiện nay nếu chúng ta không giải quyết và không áp dụng những tự thủ tục đặc biệt thì hiệu quả việc giải quyết một vụ phá sản là không đạt được”, đại biểu nêu quan điểm.
Đại biểu nhận thấy, mặc dù các trình tự, thủ tục trong Luật Phá sản (sửa đổi) này đã có rút ngắn nhưng quá trình phát sinh các khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết mới là vấn đề cần phải xem xét.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Văn Quảng cho rằng, kinh phí chi trả cho các hoạt động về phục hồi và phá sản cũng là nội dung rất quan trọng, việc giải thích từ ngữ về kinh phí phục hồi với kinh phí phá sản được gộp làm một trong dự thảo Luật hiện nay là không phù hợp. Vì vậy, đại biểu Nguyễn Văn Quảng đề nghị cần phân định rõ các kinh phí của thủ tục phục hồi và kinh phí thủ tục phá sản thành hai nội dung riêng biệt. Cùng với đó, cần đánh giá về hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả quản lý nhà nước đối với việc triển khai hai thủ tục này.