Ảnh: VGP |
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị các đại biểu Quốc hội tập trung vào các vấn đề đã chất vấn từ đầu nhiệm kỳ và một số vấn đề từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII. Sau chất vấn, Quốc hội sẽ ra Nghị quyết và gửi Quốc hội khóa XV tiếp tục theo dõi. Những vấn đề cụ thể, xin phép Quốc hội là các thành viên Chính phủ sẽ trả lời bằng văn bản. Chiều thứ Ba tuần tới, Thủ tướng sẽ trả lời các nội dung chất vấn.
Tiết kiệm 14.900 tỷ đồng mỗi năm từ cải cách TTHC, xây dựng Chính phủ điện tử
Đại biểu Trần Văn Tiến (đoàn Vĩnh Phúc) hỏi: Thời gian qua, việc triển khai giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã tạo thuận lợi cho cá nhân và tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính; tuy nhiên, theo phản ánh của cử tri, tại một số bộ, cơ quan, địa phương vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức trong giải quyết thủ tục hành chính. Đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết Văn phòng Chính phủ tham mưu giải pháp nào cho Chính phủ trong việc tiếp tục được cải thiện, đổi mới cơ chế này?
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Văn Tiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động, phục vụ. Đến nay, tỷ lệ nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng giao các bộ, cơ quan, địa phương bị quá hạn thực hiện đã giảm từ khoảng 25% tổng số nhiệm vụ (thời điểm đầu nhiệm kỳ) xuống chỉ còn khoảng 1,8% thời điểm hiện tại.
Đầu năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, đến nay 100% các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc kiện toàn Bộ phận Một cửa các cấp để giải quyết thủ tục hành chính, trong đó, 58/63 địa phương thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực hiện việc giải quyết thủ tục hành chính theo phương thức “5 tại chỗ” như Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc thiết lập một cửa “vật lý” và một cửa điện tử để tạo thuận lợi cho người thực hiện như: Hà Nội, Quảng Ninh, Đồng Nai, Cà Mau, Bình Dương… Nhiều Bộ, cơ quan tiên phong như Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Bộ Công Thương, Bảo hiểm xã hội, Tập đoàn Điện lực…
Tuy nhiên, đúng như nhận định của đại biểu Quốc hội, việc giải quyết thủ tục hành chính hiện nay vẫn còn một số, hạn chế, vướng mắc nhất định, đặc nhất là tình trạng chậm - muộn, nhũng nhiễu, tiêu cực trong giải quyết thủ tục hành chính, người thực hiện phải đi lại nhiều lần, nhiều cơ quan và chờ đợi rất lâu mà không biết kết quả giải quyết ra sao. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là hiện tượng cá biệt xảy ra ở một số ít cơ quan, là “con sâu làm rầu nồi canh”. Trong thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu chấn chỉnh tình trạng này.
Nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế nêu trên bên cạnh là do yếu tố con người còn có các yếu tố sau:
Thứ nhất, việc tổ chức Bộ phận Một cửa hiện nay vẫn còn phân tán, gắn liền với địa giới hành chính.
Thứ hai, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan đến việc giải quyết thủ tục hành chính còn hạn chế, phổ biến nhất là tình trạng các phần mềm chuyên ngành, ngành dọc không kết nối, chia sẻ dữ liệu với Hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công của địa phương.
Thứ ba, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công việc và yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc người dân ít sử dụng dịch vụ công trực tuyến do chưa tiện ích một cách thực sự.
Thứ tư, nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, các đơn vị chưa thực sự quan tâm đến việc đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính để tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Thị Hằng về điểm nhấn trong cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử trong nhiệm kỳ này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cho rằng có 2 điểm nổi bật sau đây:
Một là, cắt giảm thực chất thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm, hàng hóa kiểm tra chuyên ngành.
Tính từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa hơn 1.000 thủ tục hành chính, 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; theo cách tính toán của Ngân hàng Thế giới, tổng chi phí xã hội tiết kiệm được khoảng hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm.
Chưa hài lòng với những kết quả đạt được, tháng 5/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025 với mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Hai là, xây dựng Chính phủ điện tử, Trục liên thông văn bản quốc gia từ ngày 12/3/2019 đến nay đã có hơn 3,5 triệu văn bản điện tử, gửi nhận qua Trục, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng.
Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ vận hành từ ngày 24/6/2019 đến nay đã phục vụ 23 phiên họp Chính phủ và hơn 561 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ, giúp thay thế hơn 210 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy, tiết kiệm 169 tỷ đồng mỗi năm.
Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay, Hệ thống đã kết nối 30 bộ, cơ quan với 20 chế độ báo cáo và 106/200 chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh, được khai trương ngày 09/12/2019. Sau gần 11 tháng triển khai, đã có hơn 85 triệu lượt truy cập, 25 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; đã cung cấp 2.200/6.790 dịch vụ công trực tuyến và phấn đấu từ nay đến cuối năm cung cấp khoảng 2.500 thủ tục hành chính trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Như vậy, mỗi năm tiết kiệm trên Cổng Dịch vụ công quốc gia khoảng 6.300 tỷ đồng.
“Tổng cộng, từ cải cách hành chính và cải cách từ xây dựng Chính phủ điện tử, tiết kiệm khoảng 14.900 tỷ đồng mỗi năm. Đây là cách tính theo bảng hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cho biết.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể trả lời đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (tỉnh Ninh Thuận) về hỗ trợ các hãng hàng không của Việt Nam bị ảnh hưởng trong dịch COVID-19: Bộ đã tổ chức nhiều cuộc họp với các DN hàng không, xem xét hỗ trợ gồm 2 nhóm. Bộ GTVT đã tăng cường chuyến bay giữa các sân bay trong nước, giảm giá một số giá dịch vụ tại sân bay, tạo điều kiện có phương án kinh doanh mới, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển hàng không nội địa. Đến nay, hàng không nội địa đã phục hồi như thời điểm cuối năm 2019. Bộ GTVT và các bộ ngành đã tham mưu cho Chính phủ để ban hành các nghị quyết hỗ trợ DN hàng không.
Về thành lập các hãng hàng không tư nhân, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết gần đây một số hãng đăng ký thành lập mới nhưng do dịch bệnh COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát và khi thị trường hàng không khôi phục hoàn toàn thì sẽ xem xét cho phép thành lập một số hãng mới.
Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Ngọc Thiện trả lời ý kiến đại biểu Quốc hội về các công trình du lịch tâm linh: Theo quy định hiện hành thì không có khái niệm khu du lịch tâm linh, tuy nhiên, có thể hiểu là khu du lịch có yếu tố tín ngưỡng, tâm linh. Thời gian qua, các địa phương đã thu hút các doanh nghiệp có các sản phẩm như vậy. Hiện nay, mới có 6 khu du lịch quốc gia. Sáng nay tôi đã báo cáo là các mô hình quản lý, việc này hơi chậm, chúng tôi xin nhận trách nhiệm và sẽ sớm ban hành mô hình quản lý.
Về công khai minh bạch, thì phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật. Theo trách nhiệm quản lý, chúng tôi đề nghị các địa phương thực hiện việc công khai minh bạch này.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường trả lời về các nhóm giải pháp để phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao. Hiện nay, việc đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp đang vướng một vấn đề lớn là quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Theo Bộ trưởng, giải pháp không gì bằng liên kết các hộ sản xuất thành các hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp.
Đại biểu Trần Hồng Nguyên (Bình Thuận) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Đào Ngọc Dung về mức trợ cấp hàng tháng cho các cán bộ cách mạng bị địch bắt, tù đày.
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung cho rằng “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, khong thể đo đếm được sự gian khổ, hy sinh của các thế hệ cha ông, sau khi Pháp lệnh Người có công được sửa đổi thì Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện tiếp chế độ. Cùng với đó, Bộ LĐTTXH cũng đề xuất nâng mức thờ cúng liệt sĩ lên gấp đôi so với hiện nay.
Về câu hỏi của đại biểu Trần Thị Hằng về những gói hỗ trợ đồng bào bị bão lũ ở miền Trung, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết TTCP đã giao cho Bộ LĐTBXH chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính nâng mức hỗ trợ nhà bị sập từ 20 triệu đồng lên 40 triệu đồng, cấp 6.500 tấn gọi, hỗ trwoj vật nuôi, cây trồng, đối với những cháu có bỗ mẹ bị mất do bão lũ, không còn nơi nương tựa sẽ được vào các trung tâm bảo trợ xã hội.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân đã trả lời câu hỏi của đại biểu về tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 56/2017/QH của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả; thực trạng và phương án sắp xếp, tinh giản biên chế đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế.
Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (đoàn Tiền Giang) hỏi Bộ trưởng Bộ VHTT&DL về quản lý các công trình văn hóa tâm linh.
Đại biểu Vũ Thị Xuân Linh (Bình Thuận) nêu tình trạng xuống cấp văn hóa, đạo đức ở một số nơi, đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam về giải pháp căn cơ khắc phục tình trạng này. Đồng thời, chất vấn Bộ trưởng NN&PTNT về giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao?
Đại biểu Cao Thị Giang (Quảng Bình) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Nội vụ về tinh giản biên chế trong đơn vị sự nghiệp công lập, dẫn tới tình trạng nơi thừa, nơi thiếu giáo viên.
Đại biểu Nguyễn Sĩ Cương (Ninh Thuận) chất vấn Bộ trưởng Bộ GTVT về việc hỗ trợ các doanh nghiệp hàng không trong bối cảnh khó khăn hiện nay; về xã hội hóa các cảng hàng không.
Đại biểu Trần Thị Hằng (đoàn Bắc Ninh) hỏi Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP: Với vai trò là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp Chính phủ trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh và xây dựng chính phủ điện tử, đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết đâu là điểm nhấn của công tác này trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV?
Đồng thời, đại biểu đặt câu hỏi với Bộ GTVT về việc tiếp tục triển khai tiểu dự án đường sắt Bắc Ninh – Phả Lại; chất vấn Bộ LĐTB&XH về chính sách hỗ trợ người dân vùng lũ.
Đại biểu Ksor H'Bơ Khắp (Gia Lai) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Trần Hồng Hà về quan điểm có tiếp tục ủng hộ xây dựng thủy điện nhỏ và giải pháp hạn chế hậu quả thiên tai.
Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà cho biết thủy điện không phải là nguyên nhân gây mất rừng, lũ lụt mà đây là cách con người ứng xử với rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức, thói quen tiêu thụ đồ gỗ tự nhiên, động vật hoang dã…
Thời gian tới, Bộ T&MT sẽ cùng Bộ NN&PTNT rà soát từng mét đất rừng thiên thiên, phòng hộ, đặc dụng, kể cả những nơi không còn rừng nhưng có ý nghĩa trong phòng hộ thì phải phục hồi rừng nguyên sinh theo đúng nghĩa của nó.
Đại biểu Ngàn Phương Loan (Lạng Sơn) hỏi Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về xử lý những nội dung nhảm nhí, trái văn hóa, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng tiêu cực tới trẻ em.
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết Bộ đã đạt tỷ lệ tháo gỡ các video xấu, độc trên kênh Youtube lên đến 90%, mỗi tháng gỡ bỏ hàng ngàn video xấu độc, xử lý nghiêm một số cá nhân sản xuất nội dung xấu, độc. Bộ trưởng đề nghị người dân, tổ chức khi phát hiện các video xấu, độc thì báo đến đường dây nóng của bộ vá các sở TT&TT để phối hợp xử lý.
Thời gian tới, Bộ TT&TT đặt mục tiêu gỡ bỏ 100% video xấu, độc bị phát hiện, phát triển công cụ phát hiện video xấu, độc, phối hợp với Bộ VHTTDL ra hướng dẫn tiêu chí đánh giá video vi phạm thuần phong mỹ tục…
Đại biểu Phùng Thị Thường (Vĩnh Phúc) chất vấn Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH về các giải pháp tạo việc làm cho công nhân lao động trong bối cảnh hiện nay. Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân (Bắc Kạn) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH về vấn đề liên thông trong công tác đào tạo nghề.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời đại biểu Phùng Thị Thường và đại biểu Hồ Thị Kim Ngân: Thời gian qua, trước ảnh hưởng rất lớn của đại dịch COVID-19, đến hết năm 2020, chúng ta đã tạo việc làm cho 7,8 triệu lao động, lao động qua đào tạo đạt 64%, tỷ lệ thất nghiệp 2,48% trong quý III, đây là con số có thể chấp nhận được trong tình hình chung.
Về giải pháp tạo việc làm, cái gốc phải là tăng trưởng kinh tế, phát triển được doanh nghiệp, đây là chìa khóa tạo việc làm và giảm nghèo bền vững. Thứ hai, đào tạo và đào tạo lại, phải nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói chung, Chính phủ, Thủ tướng đã giao Bộ xây dựng đề án này, trình vào đầu năm 2021. Với các doanh nghiệp, phải tập trung nâng cao chất lượng quản trị, đổi mới công nghệ. Tăng cường dự báo, kết nối cung cầu lao động; thời gian vừa qua Chính phủ đã giao Bộ cùng với một số Bộ khác thực hiện, hiện mới dự báo chủ yếu là cung cầu ngắn hạn và chỉ ở một số lĩnh vực nhưng đã hiệu quả hơn, tốt hơn. Tăng cường kết nối đào tạo với doanh nghiệp, vừa qua bước đầu đã có hiệu quả.
Trả lời đại biểu Châu Quỳnh Giao (tỉnh Kiên Giang ) quy định “Khi khen thưởng đối với tập thể có tổ chức Đảng, đoàn thể thì tổ chức Đảng, đoàn thể phải được đánh giá “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” trong Thông tư 12/2019/TT-BNV, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết đã ký thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 12 và có hiệu lực ngay lập tức.
Trả lời đại biểu Nguyễn Thanh Thủy (Bắc Kạn) về tỷ lệ giải quyết đơn kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn thấp, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí cho biết trước hết là do tâm lý người phải thực hiện bản án phúc thẩm muốn xem xét lại; đây hầu hết là những vụ việc kéo dài, đã được giải quyết nhiều lần; quá trình thụ lý giải quyết vụ việc được kiến nghị thì thì ưu tiên tòa án được rút hồ sơ.
Đối với các hành vi ngược đãi, xâm phạm quyền con người, Viện trưởng Lê Minh Trí cho rằng để giải quyết rốt ráo việc này thì một mình viện kiểm sát mà đòi hỏi sự phối hợp cơ quan điều tra, công an, tư pháp… Viện Kiểm sát luôn làm hết sức khi giải quyết vụ án xâm hại gây bức xúc cho xã hội
Trả lời câu hỏi của đại biểu về công tác thi hành án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết trong 5 năm cơ quan thi hành án đã thi hành 3,5 triệu vụ án, thu lại 200.000 tỷ đồng, riêng năm 2020 là 54.000 tỷ đồng. Những khó khăn khách quan hiện nay là nhiều vụ án được tuyên số tiền phải thi hành rất lớn nhưng nhưng thực tế lại không có hoặc tiền, tài sản nằm ở nhiều nơi, có nhiều vấn đề tranh chấp pháp lý. Về chủ quan, hệ thống thi hành án chưa có sự tập trung chỉ đạo điều hành quyết liệt. Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã thành lập tổ công tác đi làm việc từng nơi, từng địa phương, chọn một số vụ án trọng tâm, trọng điểm để xử lý. Việc thu hồi tài sản là nhiệm vụ cả hệ thống chứ không riêng cơ quan thi hành án.
Đối với công tác theo dõi thi hành bản án hành chính, Bộ trưởng Lê Thành Long cho hay tỷ lệ còn thấp, không được như ý muốn do những vướng mắc trong Luật Tố tụng hành chính, cơ chế thi hành và trách nhiệm cơ quan theo dõi.
Đại biểu Dương Xuân Hòa (đoàn Lạng Sơn) chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan tới các tranh chấp đất đai.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trả lời: Luật Đất đai 2013 với các quy trình thủ tục hết sức bài bản, nên dù còn tồn tại nhưng hiện các vụ khiếu nại, tố cáo liên quan tới đất đai đã giảm 30-40% so với trước đây. Các vụ khiếu kiện đông người chủ yếu là liên quan tới Luật Đất đai giai đoạn trước.
Còn vấn đề tranh chấp đất đai nông lâm trường, có nhiều nguyên nhân do cơ sở dữ liệu, tình trạng quản lý lỏng lẻo, lợi ích của nông trường viên…, chúng tôi đã xác định và từng bước xử lý thông qua xây dựng cơ sở dữ liệu và sắp xếp lại các nông, lâm trường. Một vấn đề quan trọng khác là định giá đất đai bảo đảm khách quan, công bằng, thỏa đáng. Do đó, đề nghị đưa vào Luật Đất đai mới các vấn đề mới như cơ sở dữ liệu đất đai.
Trả lời đại biểu Trần thị Dung (tỉnh Điện Biên) về giải pháp thay thế chôn lấp rác thải, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết ông thấu hiểu bức xúc hoạt động xử lý chất thải rắn, chất thải sinh hoạt ở các TP lớn hiện nay.
Mỗi ngày đô thị nước ta thải ra 35.000 tấn chất thải rắn, nông thôn là 28.000 tấn. Chúng ta có 381 lò đốt rác, 37 lò sản xuất phân compost, còn lại là gần 1.000 bãi chôn lấp.Về việc chôn lấp rác, Bộ trưởng TN&MT thừa nhận đây là vấn đề bức xúc, gây ô nhiễm nguồn nước, lãng phí các nguồn tài nguyên do không tái chế được và các công nghệ cũng không đạt yêu cầu.Trong Luật Bảo vệ môi trường đã quy định ngay từ khi xây dựng hạ tầng, các dự án phải tính đến các bãi rác, điểm trung chuyển rác. Bộ cũng khuyến khích việc người dân phân loại, tái chế, tái sử dụng. Cùng với đó là các quy định người gây ô nhiễm phải trả tiền. Ông Hà cho biết thêm bên cạnh việc hỗ trợ của Nhà nước, việc thu gom, xử lý rác thải trong tương lai sẽ hướng đến là dịch vụ được tiến hành đấu giá.
Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Lê Thành Long cho rằng nhận xét của đại biểu Võ Thị Như Hoa (TP. Đà Nẵng) về tình trạng chồng chéo văn bản p háp luật là chính xác. Chính phủ xác định xây dựng thể chế là công tác ưu tiên. Bộ Tư pháp và các bộ ngành đã cố gắng nhưng tình trạng văn bản chồng chéo, hết hiệu lực, chưa phù hợp nhưng chưa được rà soát kịp thời là một thực tế. Vừa qua Chính phủ đã có báo cáo Quốc hội về những nhóm vấn đề chồng chéo, lý do và đề xuất. Nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, do khả năng chúng ta còn hạn chế chưa dự liệu hết các vấn đề đặt ra, đặc biệt những nội dung liên ngành, nhiều vấn đề khó, có những biến động đòi hỏi phải cập nhật.
Các chủ thể xây dựng luật, văn bản luật cần rà soát đánh giá kỹ tác động. Khi soạn thảo luật phải đặt trong bối cảnh liên ngành, liên lĩnh vực. Yếu tố con người là cơ bản, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng.
Về câu hỏi của đại biểu Nông Văn Tình (tỉnh Nghệ An) về tình trạng chậm văn bản hướng dẫn thi hành luật, Bộ trưởng Lê Thành Long cho rằng nhận xét là chính xác và chưa được khắc phục triệt để. Ngoài lý do chủ quan thì có những lý do khách quan như có những luật phải ban hành hàng chục văn bản hướng dẫn, trong khi có những vấn đề rất khó, còn nhạy cảm. Vì vậy, đây phải là nhiệm vụ trọng tâm của các bộ ngành, là tiêu chí đánh giá cán bộ, phải thực hiện song song khi xây dựng dự thảo luật.
Trả lời chất vấn của đại biểu Trần Thị Hoa Ry về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người tại Quyết định 2085, Quyết định 2086, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, đây là hai chương trình đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người. Tuy nhiên, 2 quyết định này ban hành vào năm 2016, tức là sau khi Quốc hội đã phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn nên không kịp đưa vào trong kế hoạch này. Đến năm 2019 Chính phủ mới báo cáo Quốc hội và đã đưa vào bố trí nguồn lực thực hiện chính sách của hai Quyết định này trong năm 2020. Do vậy nguồn vốn đã chậm hơn so với tất cả các chương trình khác.
Đặc điểm của hai chương trình này rất đặc thù: một là quy mô nhỏ, hai là nằm ở các vùng sâu, vùng xa và rất khó tiếp cận. Và cũng tiếp cận theo hai cách, phương thức công trình và phi công trình. Với công trình thì thực hiện theo Luật Đầu tư công, theo các thủ tục. Hiện nay Quyết định 2086 là đối với đồng bào dân tộc rất ít người, chủ yếu thực hiện theo công trình thì giải quyết rất tốt. Hiện nay đã trên 60%, riêng Quyết định 2085 là đối với đồng bào ít người thì thực hiện hỗn hợp cả công trình và phi công trình. Mà như vậy thì phải có hướng dẫn của Ủy ban Dân tộc; vừa rồi Ủy ban Dân tộc đã ra hướng và đang triển khai nên Quyết định này triển khai bị chậm hơn so với Quyết định 2086.
Về giải pháp ngắn hạn, ông Dũng cho biết sẽ kiến nghị với Chính phủ cho phép kéo dài chương trình đến hết năm 2021; còn về lâu dài thì đã thống nhất giữa Hội đồng Dân tộc và Chính phủ là sẽ gộp chung hai Quyết định này vào chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ đồng bào dân tộc ở miền núi trong giai đoạn tới. Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề sinh kế và đất sản xuất.
Trả lời chất vấn về hiệu quả đầu tư Icor, ông Dũng nêu rõ, đây là chỉ tiêu kinh tế hỗn hợp phản ánh chúng ta cần bao nhiêu vốn đầu tư để tạo ra được một đồng tăng trưởng GDP. Giai đoạn 2011 – 2015, ICOR của chúng ta là 6,3; 2016 - 2019 là 6,1, tức là đã giảm đi rất tốt. Tuy nhiên, năm 2020 thì tăng lên do tình hình ảnh hưởng của COVID-19 và bão lũ nên GDP năm nay giảm xuống.
Ông Dũng cũng cho biết, cần có thời gian dài thì mới đánh giá được hiệu quả của các công trình đầu tư, có độ trễ. ICOR hàng năm chỉ làm để tham khảo trong điều hành thôi, còn phải sau 5 năm mới đánh giá toàn diện được hiệu quả của việc đầu tư đó.
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng trả lời câu hỏi của đại biểu Phan Thị Minh Hiền về tôn chỉ, mục đích của báo chí: Cơ quan báo chí là cơ quan ngôn luận của các cơ quan, tổ chức, phải bám theo tôn chỉ, mục đích, phản ánh bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam. Điều này cũng giúp báo chí viết chuyên sâu và đây là cách tiếp cận của Việt Nam, được luật định. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng hoạt động theo tôn chỉ mục đích sẽ hạn chế báo chí chống tham nhũng, Bộ trưởng khẳng định điều này không hạn chế việc chống tham nhũng của báo chí.
Về việc “sáng đăng, trưa gặp, chiều gỡ”, tình trạng này đã xảy ra, đỉnh cao là năm 2017 mỗi tuần có hàng chục vụ được phát hiện, đây là việc sai trái. Năm 2018, Bộ đã có công cụ nhận diện các bài viết sáng đăng, chiều gỡ, hiện nay việc này đã giảm hẳn.
Về tin sai, tin giả, Bộ trưởng cho biết đây là vấn nạn toàn cầu. Bộ xác định làm sạch không gian mạng là nhiệm vụ trọng tâm, làm rất quyết liệt cả về thể chế, về công cụ quản lý (trung tâm giám sát xử lý an toàn thông tin mạng quốc gia, đường dây nóng tiếp nhận phản ánh tin giả). Bộ đã làm việc cứng rắn với các nền tảng xuyên biên giới, nhất là Facebook và Youtube, các nền tảng này đã tăng mạnh số lượng tin giả được gỡ bỏ. Từ đầu năm tới nay, Bộ phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý hàng trăm trường hợp tin sai, tin giả.
Thời gian tới, Bộ sẽ ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng và định danh người sử dụng mạng xã hội để người sử dụng không nghĩ rằng vô danh nên vô trách nhiệm; yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới tuân thủ pháp luật Việt Nam và đóng thuế. Bộ cũng đề nghị Quốc hội sửa hình thức xử phạt vi phạm từ mức tuyệt đối thành mức xử phạt theo doanh thu...
Trả lời câu hỏi về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết thời gian qua, tình hình tội phạm giết người có chiều hướng diễn biến phức tạp, đáng lưu ý, trong là các vụ án người thân trong gia đình giết hại lẫn nhau cho thấy sự lo ngại về một số mặt xuống cấp đạo đức xã hội. Để khắc phục tình trạng này chúng ta phải tiến hành nhiều giải pháp kinh tế, văn hóa, xã hội, lối sống, ý thức chấp hành luật pháp… để xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Do vậy, chúng ta phải quan tâm đến không chỉ kinh tế mà cả văn hóa xã hội trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành cần cùng với lực lượng công an tăng cường nắm tình hình, hòa giải ngay từ đầu mâu thuẫn trong nhân dân, ngăn ngừa các nguy cơ nảy sinh tội phạm.
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trả lời đại biểu Trần Thị Dung (đoàn Điện Biên) về vấn đề liên quan Luật An ninh mạng: Ngay sau Quốc hội thông qua Luật, Bộ Công an đã tích cực triển khai thực hiện. Còn về danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, hiện đã dự thảo xong, nhưng còn một dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật An ninh mạng chưa ban hành được do một số vấn đề đối ngoại, cân đối với một số quy định của luật pháp quốc tế.
Về câu hỏi của đại biểu Lưu Bình Nhưỡng về tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng, Bộ trưởng khẳng định các cơ quan luôn luôn tạo điều kiện cho các luật sư theo các quy định của pháp luật. Bộ đã ban hành thông tư 46 về trách nhiệm của các cơ quan Công an trong thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định rất cụ thể tạo điều kiện cho luật sư. Bộ trưởng cũng cung cấp cụ thể các số liệu cho thấy điều này.
Về thông tin công an cơ sở nhận tiền của người dân kinh doanh, Bộ trưởng khẳng định nếu có thì hết sức hãn hữu. Quan điểm của Bộ Công an là kiên quyết xử lý các vi phạm, không bao che trường hợp nào, như quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh với lực lượng Công an, “danh dự là điều quan trọng nhất”. Cùng với đó, cán bộ vi phạm thì cũng xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. Bộ trưởng cũng đề nghị cử tri, nhân dân nếu phát hiện vị phạm thì thông báo để lực lượng Công an kịp thời xử lý.
Trả lời về việc tạo điều kiện cho luật sư, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình Tranh tụng được xem là giải pháp đột phá của cải cách tư pháp. Tòa án không phải là chủ thể tranh tụng. Đối với các vụ án hình sự thì luật sư và đại diện viện kiểm sát là các bên tranh tụng. Trong các vụ án dân sự là bên nguyên và bên bị. Tòa án luôn tạo môi trường thuận lợi nhất cho các bên tranh tụng. Tòa án Nhân dân Tối cao có chỉ thị chỉ đạo không hạn chế thời gian tranh tụng của luật sư, tất cả những vấn đề nêu ra phải được giải quyết trong phiên tòa, hội đồng xét xử chỉ được tuyên án trên cơ sở chứng cứ tại tòa.
Về vấn đề thi hành án hành chính hiện nay, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết thi hành án hành chính không phải là trách nhiệm của tòa án, tuy nhiên, nếu thi hành án hình sự là trách nhiệm của Bộ Công an, án Dân sự là Bộ Tư pháp, thì thi hành án hành chính thì là trách nhiệm của các bên. Vì không có cơ quan thứ ba trung gian nên tính cưỡng chế không có, do vậy tỷ lệ thi hành án hành chính là thấp. Quốc hội cần có tổng kết về vấn đề này, giải pháp căn cơ thì cần thay đổi quy định này.
Mở đầu phiên làm việc buổi chiều 6/11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị các đại biểu Quốc hội tập trung vào các vấn đề đã chất vấn từ đầu nhiệm kỳ và một số vấn đề từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII. Sau chất vấn, Quốc hội sẽ ra Nghị quyết và gửi Quốc hội khóa XV tiếp tục theo dõi. Những vấn đề cụ thể, Chủ tịch Quốc hội xin phép Quốc hội là các thành viên Chính phủ sẽ trả lời bằng văn bản. Chiều thứ Ba tuần tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ trả lời các nội dung được chất vấn.
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trả lời đại biểu Trần Thị Dung (đoàn Điện Biên) về vấn đề liên quan Luật An ninh mạng: Ngay sau Quốc hội thông qua Luật, Bộ Công an đã tích cực triển khai thực hiện và đến nay cơ bản đã trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn. Còn về danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, hiện đã dự thảo xong, nhưng còn dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật An ninh mạng nhưng chưa ban hành được do một số vấn đề đối ngoại, cân đối với một số quy định của luật pháp quốc tế.
Về câu hỏi của đại biểu Lưu Bình Nhưỡng về tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng, Bộ trưởng khẳng định các cơ quan luôn luôn tạo điều kiện cho các luật sư theo các quy định của pháp luật. Bộ đã ban hành thông tư 46 về trách nhiệm của các cơ quan Công an trong thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định rất cụ thể tạo điều kiện cho luật sư. Bộ trưởng cũng cung cấp cụ thể các số liệu cho thấy điều này.
Về thông tin công an cơ sở nhận tiền của người dân kinh doanh, Bộ trưởng khẳng định nếu có thì hết sức hãn hữu. Quan điểm của Bộ Công an là kiên quyết xử lý các vi phạm, không bao che trường hợp nào, như quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh với lực lượng Công an, “danh dự là điều quan trọng nhất”. Cùng với đó, cán bộ vi phạm thì cũng xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. Bộ trưởng cũng đề nghị cử tri, nhân dân nếu phát hiện vị phạm thì thông báo để lực lượng Công an kịp thời xử lý.
Chính phủ ủng hộ mô hình tự chủ của Trường ĐH Tôn Đức Thắng
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định khi trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội Lê Thanh Vân (tỉnh Cà Mau) về việc cách chức hiệu trưởng trường ĐH Tôn Đức Thắng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có đúng quy định theo Luật Giáo dục đại học hay không.
Phó Thủ tướng cho biết đây là một vấn đề được công luận rất quan tâm. Chính phủ ủng hộ mô hình tự chủ của Trường đại học Tôn Đức Thắng.
Luật Giáo dục đại học đã quy định rất rõ Hội đồng trường là cơ quan quyền lực cao nhất ở trường. Các chức danh lãnh đạo, bao gồm hiệu trưởng, do Hội đồng trường quyết và đề nghị cấp có thẩm quyền, trong trường hợp Trường đại học Tôn Đức Thắng là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, phê chuẩn. Như vậy, trong trường hợp nếu có Hội đồng trường thì việc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xử lý hiệu trưởng Trường đại học Tôn Đức Thắng là không đúng luật. Tuy nhiên, đây là trường hợp rất đặc thù do Hội đồng trường của Trường đại học Tôn Đức Thắng đã hết nhiệm kỳ và việc kiện toàn Hội đồng trường của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là chậm trễ, do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
Đến thời điểm Ban Giám hiệu Trường đại học Tôn Đức Thắng, bao gồm Hiệu trưởng, nhận kỷ luật về mặt Đảng thì Trường đại học Tôn Đức Thắng không có Hội đồng trường. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ GD&ĐT, với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, phải vào cuộc và trực tiếp lập 1 đoàn do một đồng chí Thứ trưởng làm trưởng đoàn và làm việc trực tiếp để làm rõ đúng, sai và có hướng dẫn. Trước hết phải thành lập lại hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật.
Trường đại học Tôn Đức Thắng là một mô hình tốt, là điểm sáng của giáo dục đại học và tự chủ đại học, trong đó có sự đóng góp của Đảng, Nhà nước, chính quyền TPHCM, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tập thể cán bộ, giáo viên và ban lãnh đạo nhà trường, trong đó có Hiệu trưởng là rất đáng trân trọng, còn việc xử lý cán bộ thì phải tuân theo các quy định của Đảng, pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Tất cả chúng ta đều phải tự chống dịch
Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn sáng 6/11, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cùng các Bộ trưởng nhận được nhiều câu hỏi về các vấn đề nóng đang được cử tri quan tâm. Nhiều nội dung đã được trả lời, nhiều nội dung khác sẽ được làm rõ trong buổi chiều nay.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội Dương Tấn Quân (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) về giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong thời gian tới, tiến độ nghiên cứu vaccine phòng COVID-19 tại Việt Nam, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho hay “bên ngoài sóng to gió lớn chúng ta phải bao đê cho chặt”. Chúng ta đã thực hiện kiểm soát rất chặt chẽ người nhập cảnh, không chỉ những người nhập cảnh trái phép, mà nhất là những người nhập cảnh hợp pháp.
Đến nay, chúng ta đã cho nhập cảnh khoảng 200.000 người là chuyên gia, lao động nước ngoài cần thiết cho phát triển kinh tế trong nước và người Việt Nam, chủ yếu là học sinh, sinh viên, ở các nước có dịch rất cao, phải kiểm soát rất chặt. Căn cơ hơn nữa ở bên trong chúng ta phải chung sống an toàn với dịch bệnh bằng những giải pháp rất căn bản như khuyến cáo 5K của Bộ Y tế "Khẩu trang-Khử khuẩn-Khoảng cách-Không tập trung-Khai báo y tế"; tất cả các cơ sở, đầu tiên là cơ sở y tế, các nhà dưỡng lão, các trường học, cơ sở lưu trú, nhà máy công xưởng… phải thực hiện đầy đủ các quy định đảm bảo an toàn dịch.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm |
“Chúng tôi đã đưa lên bản đồ số chung sống an toàn với COVID-19, như vậy sẽ có hàng triệu cơ sở như vậy phải tự chấm điểm theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế. Màu xanh thì tiếp tục được hoạt động. Chúng ta phải chuẩn bị tinh thần dịch còn kéo dài ít nhất đến năm 2021.”, Phó Thủ tướng nói
Về nghiên cứu, phát triển vaccine, Phó Thủ tướng cho biết thời gian nghiên cứu, phát triển một vaccine bình thường kéo dài 5-10 năm để xem vaccine đó có tác dụng phòng bệnh không, trong bao lâu, có tác dụng phụ gì.
Hiện nay trên thế giới đang cấp tập nghiên cứu vaccine COVID-19, trong đó có trên 150 ứng viên, Việt Nam có 4 ứng viên. Có 32 vaccine đã tiến hành thử nghiệm trên người trong đó có 10 vaccine đã thử nghiệm vòng 3 với quy mô từ vài nghìn đến vài chục nghìn người. Trung Quốc có 4 vaccine, Mỹ có 4 vaccine, Nga có 1 vaccine, Anh có 1 vaccine. Trong 4 đơn vị nghiên cứu vaccine của Việt Nam thì có 2 đơn vị dự kiến cuối năm 2020 sẽ bắt đầu thử nghiệm vòng 1 trên người, nếu thuận lợi, nhanh nhất thì cuối năm 2021 chúng ta mới sản xuất được vaccine.
Mua vaccine nước ngoài cũng không kém phần khó khăn. Đây là vấn đề nóng trên toàn thế giới. Tổ chức Y tế thế giới và Liên minh Vaccine toàn cầu đã thành lập ra một chương trình gồm 92 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia với tham vọng có thể cung cấp vaccine giá rẻ, nhưng hiện chưa có công ty sản xuất vaccine nào cam kết bán cho chương trình này.
Các cơ quan chức năng, doanh nghiệp của Việt Nam cũng đang làm việc với tất cả các đối tác nhưng việc mua vaccine sớm không hề dễ khi nhu cầu đang cao hơn năng lực sản xuất và chưa có gì chắc chắn. Vì vậy, giải pháp căn cơ nhất của Việt Nam vẫn là tiếp tục các biện pháp phòng dịch, chung sống an toàn với dịch.
Phó Thủ tướng đề nghị lãnh đạo các bộ ngành, địa phương, các đại biểu Quốc hội không thể chủ quan khi 24 giờ qua thế giới ghi nhận nửa triệu ca nhiễm. Việt Nam vẫn yên bình như hôm nay thì phải chúng sống an toàn với dịch bệnh, đầu tiên là bệnh viện, trường học rồi đến tất cả các cơ sở lưu trú, phương tiên giao thông, siêu thị, chợ, nhà máy, công sở… Tới đây, tất cả chúng ta đều phải tự chống dịch, đến tận từng người dân.
Đại biểu Trần Dương Tuấn (tỉnh Bến Tre) đặt câu hỏi với Thủ tướng Chính phủ về công tác chỉ đạo, điều hành phát triển lĩnh vực văn hóa.
Đại biểu Trần Thị Hoa Ry (Bạc Liêu) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hiệu quả đầu tư (ICOR).
Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy (Bến Tre) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Nội vụ và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc sắp xếp hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thú ý hiện còn chưa thống nhất ở các địa phương, không theo quy định của Luật Thú y, đâu là giải pháp điều chỉnh?
Đại biểu Huỳnh Quốc Phòng (Thái Bình) chất vấn Bộ trưởng Bộ VH&TTDL về giải pháp trước thực trạng xuống cấp về đạo đức và văn hóa trong một bộ phận xã hội.
Đại biểu Phạm Thị Minh Hiền (tỉnh Phú Yên) chất vấn Bộ trưởng Bộ TT&TT về quy định tác nghiệp báo chí và việc xử lý tình trạng “sáng đăng, trưa gặp, chiều gỡ” trên báo chí. Đại biểu cũng đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam về những hành động tiếp theo để các trường đại học được tự chủ về nhân lực, bộ máy, tài chính, từ đó tự chủ về chuyên môn?
Đại biểu Vũ Thị Thủy (Hải Dương) đặt câu hỏi về tình trạng lợi dụng mạng xã hội để thông tin xuyên tạc, bịa đặt về tình hình đất nước, giải pháp của Bộ TT&TT là gì?...
Đại biểu Hoàng Văn Niêm (Long An) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ LĐTBXH về chênh lệch lớn về lương hưu giữa những người nghỉ hưu trước và sau năm 1993, giải pháp cho vấn đề này?
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung: Đây là một day dứt trong quá trình làm chính sách xã hội. Hiện có 592.000 người hưởng lương hưu trước năm 1993, trong đó 60% số người nghỉ hưu sớm trước tuổi, mức lương rất thấp. Từ năm 2008 đến nay Chính phủ đã 12 lần điều chỉnh lương hưu cao hơn mức bình quân tuy nhiên vẫn rất thấp. Chúng ta chỉ có thể xử lý căn bản vấn đề này khi điều chỉnh chính sách tiền lương.
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa (Nam Định) đặt câu hỏi với Bộ trưởng NN&PTNT về khắc phục hậu quả sạt lở bờ biển và xây dựng các công trình thủy lợi tại địa phương?
Theo yêu cầu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường sẽ trả lời bằng văn bản các câu hỏi này.
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) đặt câu hỏi Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Cử tri phản ánh, nhiều bệnh nhân điều trị bệnh theo BHYT vẫn phải bỏ tiền túi mua thuốc, Phó Thủ tướng chỉ đạo như thế nào để giải quyết tình trạng này, chăm sóc tốt hơn sức khỏe người dân?
Đại biểu đặt câu hỏi cho Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ về giải pháp giảm tải cho giáo viên?
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ trả lời chất vấn. Ảnh: VGP |
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ: Chúng tôi rất ý thức vấn đề giảm tải cho giáo viên bằng những quy định, chỉ đạo rất thiết thực, trước hết giảm số hồ sơ, sổ sách giáo viên phải quản lý, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; rà soát tinh giản chương trình hiện hành; xây dựng bài giảng điện tử, tập huấn trực tuyến. Bộ GD&ĐT cũng đang triển khai nghiên cứu, rà soát tính toán lại định mức cho giáo viên.
Đại biểu Phan Văn Hòa (tỉnh Đồng Tháp) tranh luận với Bộ trưởng Bộ Xây dựng về nhà ở cho người thu nhập thấp. Đại biểu cho rằng ở hai thành phố lớn, bất động sản không theo nhu cầu thị trường, nhất là nhà ở cho người thu nhập thấp rất khó khăn, đây là vấn đề bất cập.
Đại biểu Lê Thanh Vân (đoàn Cà Mau) phát biểu thêm về vấn đề liên quan đến trường Đại học Tôn Đức Thắng. Đại biểu Trần Thị Diệu Thúy (đoàn TPHCM) tranh luận lại với đại biểu Lê Thanh Vân về nội dung này. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, các đại biểu còn có quan điểm khác nhau, đề nghị tiếp tục tranh luận trực tiếp, dành thời gian cho Quốc hội thảo luận các vấn đề quan trọng khác.
Đại biểu Thái Trường Giang (tỉnh Cà Mau) chất vấn Thủ tướng Chính phủ về giải pháp đột phá nhằm thực hiện tốt hơn nữa về năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam và về liên kết phát triển vùng?
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (tỉnh Hải Dương) chất vấn Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Ngọc Thiện về quy định mô hình khu du lịch quốc gia, khu du lịch cấp tỉnh và di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh, hiện vẫn chưa thống nhất. Đại biểu cũng đặt câu hỏi Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về phát triển các mạng xã hội nội địa của Việt Nam.
Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện trả lời: Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành 3 nghị định, Bộ ban hành 2 thông tư hướng dẫn Luật Du lịch. Về mô hình quản lý khu du lịch, nội dung này chưa hoàn thành. Mô hình gắn với công tác quản lý và tổ chức bộ máy, tổ chức bộ máy không thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Đây là chỗ rất khó mà trong quá trình Bộ nghiên cứu, tham mưu, vừa rồi Bộ đã tổ chức các hội nghị hội thảo về các mô hình này, nơi thì là đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh, nơi thì thuộc huyện, nơi thì thuộc Sở VHTTDL… Theo tôi, Bộ trưởng Nội vụ rõ hơn về vấn đề này; còn tình hình thực tế tùy thuộc vào quyết định của chính quyền địa phương. Chúng tôi đang nghiên cứu và sớm nhất đầu năm sau sẽ có hướng dẫn và đề nghị Bộ Nội vụ phối hợp giải quyết.
Về câu hỏi về mạng xã hội, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, hai năm gần đây, các mạng xã hội Việt Nam có sự phát triển bứt phá, năm 2018 có 47 triệu người sử dụng thì nay đã đạt con số 96 triệu tài khoản, tương đương với các mạng lớn của nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều mạng xã hội mới ra đời, vừa qua cơ quan chức năng đã cấp phép cho 800 mạng, tập trung vào các thị trường ngách, các mạng đều xây dựng bằng nguồn vốn tư nhân, theo cơ chế thị trường, không sử dụng ngân sách nhà nước.
Bộ sẽ tiếp tục phát triển các mạng trong nước, đặc biệt là các mạng thế hệ mới. Việt Nam là một trong số không nhiều các nước trên thế giới có các mạng xã hội như vậy.
Đại biểu Lê Thanh Vân (tỉnh Cà Mau) đề nghị Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết thực chất nguyên nhân gây ra đượt lũ lụt lịch sử tại miền Trung. Chúng ta cần có những giải pháp nào để bảo đảm an toàn cho người dân?
Câu hỏi dành cho Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam là việc cách chức hiệu trưởng trường ĐH Tôn Đức Thắng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có đúng quy định theo Luật Giáo dục đại học hay không?
Đại biểu Dương Tấn Quân (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về giải pháp khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn
Câu hỏi dành cho Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam là giải pháp phòng, chống COVID-19 trong thời gian tới, tiến độ nghiên cứu vaccine phòng COVID-19 tại Việt Nam?
Đại biểu Dương Minh Tuấn (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) hỏi quan điểm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tình trạng một số văn bản phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, giải pháp khắc phục là gì?
Câu hỏi dành cho Bộ trưởng Bộ TT&TT là về quy hoạch phát triển quản lý báo chí đến năm 2025 là chủ trương lớn, Bộ trưởng cho biết kết quả và những giải pháp?
Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Lê Thành Long trả lời chất vấn |
Bộ trưởng Tư pháp Lê Thành Long: Theo số liệu thống kê thì trong nhiệm kỳ vừa qua, Quốc hội đã ban hành 75 luật và nghị quyết, đây là cố gắng rất lớn, được dư luận đánh giá khá tích cực. Tuổi thọ trung bình của một luật là 10 năm, trung bình 5 năm sửa đổi một số điều, 10 năm sửa đổi tổng thể. Trong nhiệm kỳ vừa qua có những luật có tuổi thọ dưới 5 năm, như Luật Đầu tư công, đó là để đáp ứng yêu cầu của một đất nước đang phát triển. Tuy nhiên, một hệ thống pháp luật ổn định và hiệu quả vẫn là mong muốn của chúng ta.
Về giải pháp, hiện chúng ta đang tổng kết nhiều Nghị quyết của Đảng như các Nghị quyết 48, 49, sắp tới sẽ đề xuất ban hành nhiều văn bản luật; thực hiện nghiêm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan soạn thảo, bộ ngành; nâng cao vai trò của các nhà khoa học, chuyên gia; chúng tôi cũng rất muốn Quốc hội và các cơ quan và dư luận tiếp tục giám sát để nâng cao chất lượng các dự án luật.
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Tháng 4/2019 Thủ tướng ký Quy hoạch báo chí. Tháng 6/2019 Bộ TT&TT có kế hoạch triển khai. Tháng 8/2019, Bộ TT&TT và Ban Tuyên giáo Trung ương đã làm việc với từng cơ quan báo chí. Đến thời điểm này, có 33/33 tổ chức hội ở Trung ương phải quy hoạch thì đã làm xong; có 13 bộ ngành triển khai quy hoạch đến nay còn 2 cơ quan đã có phương án; có 31 địa phương thực hiện quy hoạch thì còn 1 địa phương đang hoàn thiện. Đến hết năm nay Quy hoạch báo chí sẽ thực hiện xong, sau đó chúng ta sẽ thực hiện tiếp công tác phát triển báo chí, xây dựng các đơn vị báo chí chủ lực, hỗ trợ đặt hàng báo chí…
Đại biểu Nguyễn Phương Tuấn (tỉnh Ninh Bình) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ TT&TT về khả năng hoàn thành mục tiêu tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến đạt 30% vào năm 2020; sự khác biệt giữa Chính phru điện tử và Chính phủ số; giải pháp, cách làm mới, nguốn nhân lực để triển khai Chính phủ điện tử?
Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng trả lời chất vấn. Ảnh: VGP |
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Để đạt mục tiêu cung cấp 30%dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 vào năm 2020, Bộ TT&TT đã tìm cách làm đột phá là sử dụng công nghệ số và phát triển Chính phủ điện tử, dịch vụ công trực tuyến dựa trên nền tảng cơ bản đưa tất cả các dịch vụ trực tuyến cấp độ 4 lên cùng lúc. Với cách làm này đã có 2 bộ đạt 100% dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 là Bộ Y tế, Bộ TT&TT. Vừa qua chúng tôi thí điểm tại tỉnh Bến Tre, sau 3 tháng thì tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp 4 từ 6% đã đạt 100%. Sắp tới Bộ TT&TT sẽ triển khai trên diện rộng.
Khó nhất trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến là kết nối, Bộ TT&TT đã xây dựng trục kết nối chung mà các tỉnh chưa phải đầu tư, Bộ TT&TT cũng hỗ trợ kết nối thanh toán dịch vụ công trực tuyến với các ngân hàng cho các địa phương. Các DN công nghệ thông tin của Việt Nam cũng đã vào cuộc rất tích cực. Vì vậy chúng tôi hoàn toàn tin rằng đến hết năm 2020 tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đạt hơn 30% và đến năm 2021 chúng ta có thể cung cấp toàn bộ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4.
Nói về sự khác biệt giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ số, Bộ trưởng Bộ TT&TT cho biết Chính phủ điện tử là tin học hóa quy trình, cung cấp dịch vụ trực tuyến, còn Chính phủ số hoạt động trên môi trường số, sử dụng dữ liệu ra quyết định, cung cấp thêm dịch vụ mới theo nhu cầu người dân. Trong năm nay Bộ TT&TT sẽ ký chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số.
Về nhân lực cho Chính phủ điện tử, Bộ trưởng Bộ TT&TT cho rằng phải có sự thay đổi đối với nhiệm vụ của cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin từ làm trực tiếp sang đặt hàng và giám sát DNthực hiện. Bộ TT&TT cũng đang triển khai chương trình 100 chuyên gia chính phủ điện, hình thành mạng lưới chuyên gia, diễn đàn về chính phủ điện tử. Đối với người dùng thì xây dựng công cụ phần mềm, công khai, dễ dùng như mạng xã hội để không phải đào tạo lại
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung (tỉnh Thái Bình) đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ về nguyên nhân đến nay luật giáo dục nghề nghiệp thi hành 5 năm, Bộ trưởng đã hứa tháng 9/2020 sẽ ban hành hướng dẫn về khối lượng văn hóa dạy trong các trường nghề?
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ trả lời: Khối lượng văn hóa được dạy trong các trường phổ thông, trường nghề là vấn đề hết sức phức tạp, Bộ đã chỉ đạo các ban soạn thảo tính toán phù hợp. Theo Luật Giáo dục năm 2019 thì các trường nghề được dạy văn hóa, chúng tôi đã thảo luận với Bộ LĐTBXH về vấn đề này, đã xong dự thảo thông tư, cuối năm nay dự kiến ban hành, nhưng cần tránh chồng chéo.
Thứ hai, chúng tôi đã có công văn trả lời Bộ LĐTBXH, theo đó các trường nghề tiếp tục dạy nội dung hiện hành cho tới khi có văn bản mới. Chúng tôi cố gắng ban hành thông tư khả thi, thực tế.
Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân trả lời chất vấn. Ảnh: VGP |
Đại biểu Huỳnh Thanh Phương (tỉnh Tây Ninh) đặt câu hỏi cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về giải pháp chất lượng nâng cao chất lượng cán bộ ngành tòa án. Đại biểu hỏi Bộ trưởng Bộ Nội vụ về hiệu quả thực hiện tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập, nguyên nhân của những tồn tại và giải pháp giải quyết?
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân trả lời: Nghị quyết số 19-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 6, Khóa XII) đã giao nhiệm vụ rất rõ, đến năm 2020 phải thực hiện được 3 mục tiêu. Đó là: tổ chức sắp xếp lại giảm 10% số đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện tinh giảm 10% những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công lập; và thực hiện tự chủ 10% đối với đối với đơn vị sự nghiệp công lập. “Đến giờ này, với việc sắp xếp, đối với Trung ương đã giảm được 9,09%; đối với địa phương đã giảm được 7,34%...
Về tinh giản biên chế, với những người hưởng lương từ ngân sách, đến giờ này đối với những đơn vị nghiệp công lập, Bộ trưởng cho biết, đã giảm được là 11,98% số biên chế được giao so với năm 2015 hưởng lương.
Về mục tiêu xây dựng cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ trưởng nêu rõ, đã thực hiện theo Nghị định 16 của Chính phủ. Trước đây, Chính phủ quy định giao cho 6 bộ, ngành đề xuất Chính phủ xây dựng 6 nghị định để tự chủ trong từng ngành, lĩnh vực. “Đến giờ phút này chỉ mới có 2 nghị định, đó là Nghị định số 54 về lĩnh vực khoa học, công nghệ và Nghị định số 141 về các đơn vị sự nghiệp khác; mới gần đây Chính phủ có Nghị quyết giao cho Bộ Tài chính hoàn thiện hồ sơ dự thảo một nghị định để thay thế toàn bộ Nghị định 16 về vấn đề tự chủ của các doanh nghiệp dựa trên quan điểm là thực hiện tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập, tinh giản biên chế”, Bộ trưởng nói. Nói cách khác, Nghị định 16 sửa đổi này sẽ bao gồm tất cả các quy định khác mà các bộ, ngành không phải xây dựng; vậy thì, “chậm ở đây là do cơ chế”.
Đến giờ này, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành 2 nghị định, đó là Nghị định số 106 về vấn đề vị trí việc làm đối với đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 120 về tổ chức thành lập, giải thể, sắp xếp lại đơn vị nghiệp công lập. Như vậy, “muốn thực hiện cơ chế tự chủ đòi hỏi phải có 3 Nghị định, trong đó Nghị định số 106 và số 120 có rồi, còn chờ sửa đổi, bổ sung Nghị định 16 nữa là chúng ta sẽ tạo cơ chế thuận lợi để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện trong thời gian tới”, Bộ trưởng cho biết.
Đại biểu Nguyễn Văn Hiền (tỉnh Lâm Đồng) đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Bộ NN&PTNT tại sao chất lượng rừng của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác, nguyên nhân là gì?
Câu hỏi dành cho Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao về lý do tại sao chưa có pháp nhân nào bị truy cứu trách nhiệm trong các vụ việc vi phạm về môi trường?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trả lời: Thông tin từ bản đồ Google Map là “hoàn toàn chính xác”, vì tỷ lệ che phủ rừng của Lào hiện nay là 58%, của Campuchia là 47%, trong khi của chúng ta ít hơn, xấp xỉ 42%. Chính vì thế, “tới đây là trách nhiệm của tất cả hệ thống chính trị và toàn dân đều phải có trách nhiệm, cố gắng cao nhất với hai loại rừng là rừng tự nhiên và rừng trồng”, Bộ trưởng nói.
Về nguyên nhân, Bộ trưởng cho biết, với hai nước Lào và Campuchia, diện tích tự nhiên bình quân chia đầu người về tài nguyên đất lớn hơn so với nước ta. Lào chủ yếu là rừng, có hơn 5 triệu dân, tới 18 triệu ha đất tự nhiên. Cho nên, diện tích rừng của họ chủ yếu là rừng tự nhiên. Rừng chúng ta là rừng tự nhiên, 10,3 triệu ha được phục hồi từ năm 1990, lúc đó chúng ta mới có 9 triệu ha. Đến bây giờ, chất lượng chưa bảo đảm là có tính chất lịch sử như vậy.
“Đương nhiên, cũng có trách nhiệm về công tác quản lý nhà nước”. Thừa nhận điều này, Bộ trưởng cho rằng, “phải tăng cường, kể cả các nhóm giải pháp, để nếu thuộc nguyên nhân về quản lý, thì tất cả các cấp phải tập trung, còn nguyên nhân về rừng, chúng ta mới có 30 năm để phục hồi, thì phải bằng cơ chế, chính sách để hỗ trợ người dân tăng cường công tác chăm lo bảo vệ rừng sớm”.
Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí: Không phải hành vi nào vi phạm về môi trường cũng truy cứu trách nhệm hình sự. Có những hành vi chúng ta quy định xử lý hành chính mà vẫn vi phạm tiếp thì mới xử lý hình sự, hoặc đã xử lý hình sự cá nhân thì có xử lý tiếp pháp nhân hay không. Đây là vấn đề mới nên chúng ta cần xem xét tính khả thi của các điều luật. Thực tế hiện nay cán bộ xử lý vấn đề này đang gặp lúng túng cần có hướng dẫn của các cấp quy định rõ tình tiết, chi tiết cụ thể để không có oan sai hay để lọt.
Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (tỉnh An Giang) đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Bộ TT&TT việc triển khai công nghệ 5G tại Việt Nam có bị chậm so với các nước không và hiệu quả đầu tư?
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Chúng ta làm mạng 5G không chậm, năm 2019 thử nghiệm kỹ thuật, năm 2020 thử nghiệm thương mại và 2021 triển khai diện rộng. Mạng 2G chúng ta đi cùng nhịp thế giới nhưng 3G, 4G chậm hơn 7-8 năm. Chúng ta triển khai mạng 5G theo pha trước hết ở thành phố lớn, khu đông người, khu công nghiệp, trường đại học, dựa trên hạ tầng mạng 4G. Bộ đã đề nghị DN xây dựng phương án về dùng chung cơ sở và thiết bị. Làm mạng 5G đồng thời tắt mạng 2G, 3G. Khi triển khai diện rộng sẽ có thiết bị 5G của Việt Nam sản xuất.
Đại biểu đề nghị Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho biết kinh phí sử dụng để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu và tổ chức tập huấn.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ: Chi phí xây dựng chương trình, SGK đến nay Bộ GD&ĐT không sử dụng khoản ODA của Ngân hàng Thế giới (hơn 16 triệu USD) dùng để biên soạn SGK theo Nghị quyết 122/2020/QH14 của Quốc hội như kế hoạch ban đầu. Thời gian tới Bộ GD&ĐT tiếp tục thực hiện xã hội hóa việc biên soạn SGK, tăng cường kiểm soát chất lượng, trừ trường hợp không có bộ sách nào thì Bộ sẽ tổ chức biên soạn theo Nghị quyết 122/2020/QH14. Đối với xây dựng chương trình giáo dục mới thì đã chi tiêu khoảng 12 triệu USD. Sau khi rà soát loại trừ những hoạt đọng, chi phí khoogn thiết thực, hiệu quả, Bộ GD&ĐT đã trả lại ngân sách 29,7 triệu USD.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà trả lời chất vấn. Ảnh: VGP |
Đại biểu Nguyễn Tạo (tỉnh Lâm Đồng) đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Bộ Xây dựng về giải pháp giải quyết tình trạng thiếu nhà ở cho người thu nhập thấp ở đô thị.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Tạo:
Yêu cầu phát triển nhà ở xã hội rất lớn, theo tính toán đến năm 2020 cần 12,5 triệu m2 nhà ở xã hội. Đảng, Nhà nước luôn luôn quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát triển, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có chương trình riêng, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng nhà ở xã hội, miễn giảm tiền sử dụng đất, một số loại thuế, trợ giúp đầu tư hạ tầng cho các dự án nhà ở xã hội.
Với địa phương có chính sách hỗ trợ lãi suất cho người mua nhà ở xã hội. Với sự cố gắng rất cao của các địa phương, đã xây dựng 5, 2 triệu m2 nhà ở xã hội, trong đó 2,8 triệu m2 cho người thu nhập thấp và 2,3 triệu m2 cho công nhân. Kết quả đạt được rất cố gắng nhưng còn thấp so với yêu cầu, mới giải quyết 41,5% yêu cầu.
Hạn chế, tồn tại vướng mắc lớn nhất là thiếu nguồn cung nhà ở xã hội, do cơ chế chính sách chưa đủ mạnh khuyến khích các nhà đầu tư, thủ tục, chính sách còn nhiều bất cập và thiếu nguồn vốn hỗ trợ người mua nhà ở theo quy định của pháp luật, theo quy định cần dành 9 nghìn tỷ nhưng nay mới được 4 nghìn tỷ. Nhiều địa phương chưa bố trí đủ quỹ đất, chưa quan tâm xây dựng hạ tầng kỹ thuật dự án nhà ở xã hội và chưa quyết liệt cải cách thủ tục hành chính.
Giải pháp thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng có nhiều chỉ đạo và nhiều giải pháp đang thực hiện. Trước hết, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và diện tích tối thiểu căn hộ 45m2, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Chính phủ cũng rất quan tâm đầu tư cho người dân vay vốn. Các địa phương quan tâm đầu tư bố trí quỹ đất, hạ tầng…
Chúng tôi thấy cần xử lý thêm một số giải pháp căn cơ: Rà soát, bổ sung các quy hoạch, tạo điều kiện cấp phép các dự án; bố trí đủ quỹ đất, hiện nay nhu cầu nhà ở xã hội rất lớn nhưng chưa bố trí đủ, tăng cường đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào dự án; tới đây sẽ sửa đổi căn bản Nghị định 100 tạo cơ chế đột phá hơn cho doanh nghiệp, người dân mua nhà ở xã hội. Chúng tôi cũng đang báo cáo Chính phủ hỗ trợ nhà ở giá thấp có diện tích nhỏ hơn 70m2 và giá bán đến 15 triệu đồng/m2. Hiện cơ cấu nhà ở đô thị có diện tích nhỏ và giá dưới 1 tỷ đồng rất khan hiếm.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII. - Ảnh: VGP |
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo tóm tắt Tổng hợp việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
1. Lĩnh vực Kế hoạch và đầu tư
Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế đã đạt được nhiều kết quả thực chất hơn. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ nét, doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng và chất lượng. Phát triển đồng bộ các loại thị trường, kinh tế tư nhân từng bước trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài có tính lan tỏa, áp dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường.
Khung chính sách, pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công được hoàn thiện và nâng cao, giảm tình trạng đầu tư dàn trải, nợ đọng xây dựng cơ bản; giải ngân vốn đầu tư công năm 2020 có nhiều điểm sáng. Ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 đạt được những kết quả nổi bật, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự đi vào cuộc sống; tiến độ một số công trình trọng điểm quốc gia chưa đạt yêu cầu; giải ngân vốn đầu tư công giai đoạn 2016 – 2019, nhất là vốn ODA còn chậm.
2. Lĩnh vực Tài chính
Hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, thị trường tài chính, thuế, quản lý nợ công được hoàn thiện.
Công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đạt một số kết quả, thu từ cổ phần hóa, thoái vốn bám sát kế hoạch Quốc hội giao. Thị trường tài chính tiếp tục có những bước phát triển tích cực, hoàn thành các mục tiêu và kế hoạch đề ra. Công tác huy động vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công được thực hiện chặt chẽ, bám sát các Nghị quyết của Quốc hội. Cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ lệ bội chi giai đoạn 2016 – 2020 dưới 4%.
Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chưa đạt kế hoạch đề ra; còn tình trạng thất thu, trốn thuế, nợ đọng thuế; sử dụng vốn vay tại một số dự án chưa hiệu quả.
3. Lĩnh vực Ngân hàng
Chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai mạnh mẽ; hoạt động thanh toán tiếp tục có bước phát triển với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại được áp dụng; dự trữ ngoại hối tăng.
Tuy nhiên, việc cơ cấu lại các ngân hàng mua bắt buộc, ngân hàng kiểm soát đặc biệt, ngân hàng yếu kém chưa đạt yêu cầu; nợ xấu chương trình cho vay theo Nghị định 67 vẫn gia tăng, các chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ; quá trình xử lý nợ xấu có một số khó khăn, vướng mắc về khuôn khổ pháp lý.
4. Lĩnh vực Công Thương
Hệ thống hạ tầng thương mại được chú trọng phát triển, kết hợp hài hòa giữa hạ tầng thương mại truyền thống và hiện đại. Ký kết và triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc triển khai chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2011 - 2020 đạt và vượt nhiều chỉ tiêu; xuất siêu 5 năm liên tiếp, nhất là trong bối cảnh đại dịch covid-19 tác động, 10 tháng đầu năm 2020 đã xuất siêu kỷ lục, đạt trên 18,7 tỷ USD. Hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước xây dựng và phát triển thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Công tác quản lý thị trường, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, bán hàng đa cấp được tăng cường.
Việc xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương được tập trung chỉ đạo, từng bước phân nhóm các dự án để xác định phương án xử lý cụ thể, khả thi, dứt điểm, bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị và theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: xử lý trên nguyên tắc đề cao tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp, theo nguyên tắc, cơ chế thị trường, nhà nước không cấp thêm vốn vào dự án, hạn chế tối đa thiệt hại cho Nhà nước, quan tâm tới quyền của người lợi người lao động, an sinh - xã hội, môi trường và ổn định xã hội. Cụ thể: (1) Nếu tháo gỡ được vướng mắc về thuế suất GTGT 5% đối với phân bón (QH sẽ có ý kiến về dự thảo NQ về thuế GTGT phân bón tại kỳ họp này), bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước và doanh nghiệp nhập khẩu thì sẽ tháo gỡ được cho các dự án DAP-1 Hải Phòng, DAP-2 Lào Cai, Đạm Ninh Bình và có thể đưa DAP-1 Hải Phòng ra khỏi danh sách 12 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả trong thời gian tới; (2) Một số dự án đã tìm được đối tác hợp tác đầu tư hoặc đang có nhà đầu tư quan tâm mua lại tiếp tục đầu tư, hiện đang thương thảo với nhà đầu tư vào các dự án như: Nhà máy sản xuất sơ xợi Đình Vũ, Nhà máy gang thép Thái nguyên GĐ 2 và Dự án Thép Việt Trung. Về Dự án nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 có nhiều khó khăn, vướng mắc do có sai phạm trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng; cho đến nay đã hoàn thành xấp xỉ 86% khối lượng; Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo, giao nhiệm vụ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiếp tục triển khai, hoàn thành xây dựng nhà máy đưa vào vận hành trong năm 2021 - 2022 đảm bảo chất lượng và an toàn.
Công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện được triển khai thực hiện theo Nghị quyết số 62 của Quốc hội. Từng bước đẩy mạnh xã hội hóa phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Thúc đẩy doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngày càng được phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, công tác quản lý thị trường còn bất cập. Việc xử lý các dự án, doanh nghiệp yếu kém ngành Công Thương có nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa đúng kế hoạch. Một số bất cập giữa quy hoạch và đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện còn chưa được xử lý triệt để. Quản lý quy hoạch và xây dựng thủy điện có nơi còn chưa chặt chẽ, còn có dự án thủy điện nhỏ có tác động đáng kể đến môi trường.
5. Lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hệ thống cơ chế, chính sách về nông nghiệp cơ bản được hoàn thiện, nhất là khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, phát triển hợp tác xã, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ưu đãi tín dụng, sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp; rà soát, loại bỏ các loại phí, lệ phí không hợp lý. Đã thu hút được nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp; nhiều nhà máy chế biến lớn được xây dựng và đi vào hoạt động. Việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả quan trọng, vượt trước gần 02 năm so với kế hoạch Quốc hội giao, diện mạo nông thôn và đời sống người dân được nâng lên.
Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp còn chậm, nhiều yếu tố thiếu bền vững, đầu tư cho nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu; việc đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm. Kết quả xây dựng nông thôn mới của một số vùng còn thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước và vẫn còn chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền; môi trường nông thôn chưa thực sự chuyển biến rõ nét. Việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp tại một số địa phương vẫn còn chậm.
6. Lĩnh vực Giao thông vận tải
Đẩy nhanh đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia như Đường cao tốc Bắc – Nam, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, cải tạo và nâng cấp đường băng sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất… Tập trung rà soát, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới hạ tầng giao thông, danh mục các dự án giao thông theo thứ tự ưu tiên đầu tư và bố trí nguồn lực thực hiện; hoàn thiện thể chế đầu tư theo hình thức PPP; nghiêm túc thực hiện chủ trương không đầu tư dự án BOT trên đường hiện hữu; rà soát tổng thể vị trí đặt trạm thu phí, chính sách miễn giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ; triển khai thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử không dừng.
Triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; tập trung xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông. Tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc từ năm 2016 đến nay đã giảm cả 03 tiêu chí.
Tuy nhiên, một số công trình giao thông trọng điểm vẫn còn chậm tiến độ; việc đầu tư, xây dựng phát triển vận tải công cộng chưa đáp ứng nhu cầu; tiến độ triển khai thu phí tự động không dừng chậm 02 năm so với Nghị quyết của Quốc hội; tình hình trật tự an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp, còn một số địa phương chưa hoàn thành mục tiêu giảm tai nạn giao thông trên cả 03 tiêu chí.
7. Lĩnh vực Xây dựng
Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật về kiến trúc, quy hoạch xây dựng và quản lý phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị; quản lý đầu tư xây dựng nhà ở và thị trường bất động sản. Công tác tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn, quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật được quan tâm và có chuyển biến tích cực. Công tác quản lý, kiểm soát phát triển đô thị đã được triển khai tốt hơn, từng bước đảm bảo phát triển đô thị hài hòa, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Các chương trình phát triển nhà ở trọng điểm theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp cho hàng trăm ngàn hộ gia đình chính sách, người nghèo được cải thiện chỗ ở.
Tuy nhiên, chất lượng công tác lập, phê duyệt quy hoạch đô thị còn hạn chế; năng lực đội ngũ cán bộ thực thi còn yếu; cơ cấu hàng hóa bất động sản nhất là nhà ở tại các thành phố lớn chưa đáp ứng nhu cầu thị trường, phát triển nhà ở xã hội còn hạn chế; hệ thống pháp luật liên quan đến một số loại hình bất động sản mới (condotel, officetel,…) chưa đồng bộ.
8. Lĩnh vực Tài nguyên và môi trường
Hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi các chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, khoáng sản, bảo vệ môi trường. Xử lý tốt sự cố môi trường tại các tỉnh miền Trung; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và triển khai quyết liệt nhiều giải pháp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, nhất là tại các lưu vực sông, kênh, mương còn chậm được xử lý; ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh còn diễn biến phức tạp. Công tác quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản, đất đai ở một số nơi hiệu quả chưa cao; vẫn còn tình trạng khai thác trái phép cát, sỏi lòng sông.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu dự phiên họp. - Ảnh: VGP |
9. Lĩnh vực Khoa học và công nghệ
Chính sách pháp luật về khoa học công nghệ tiếp tục được hoàn thiện; cơ chế quản lý được đổi mới góp phần thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nhiều doanh nghiệp chủ động đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế tăng từ 33,6% trong giai đoạn 2011 – 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020. Thị trường khoa học công nghệ từng bước hoàn thiện và phát triển. Chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao, kết quả nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh đã góp phần tái cấu trúc nông nghiệp theo hướng hiện đại, tăng giá trị xuất khẩu, đưa nước ta vào nhóm nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về tôm, cá tra, cà phê, điều, hồ tiêu, gạo...
Tuy nhiên, còn một số cơ chế, chính sách ưu đãi về khoa học công nghệ chưa đồng bộ; chưa ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045; liên kết giữa nghiên cứu với thị trường, giữa nhà khoa học với doanh nghiệp còn yếu; quy định về quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp còn vướng mắc.
10. Lĩnh vực Giáo dục và đào tạo
Đã ban hành Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa và các đề án có liên quan, bảo đảm đồng bộ các điều kiện về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Chỉ đạo ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới; tổ chức biên soạn sách giáo khoa theo phương thức xã hội hóa; thẩm định, phê duyệt được 5 bộ sách giáo khoa lớp 1. Xếp hạng giáo dục Việt Nam tăng. Việc tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia cơ bản bảo đảm khách quan, công bằng, giảm áp lực và tốn kém, nhất là kỳ thi năm 2020 trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Việc dạy và học trực tuyến được đẩy mạnh, công tác bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục đại học đạt kết quả tích cực.
Tuy nhiên, chưa tổ chức biên soạn được 01 bộ sách giáo khoa lớp 1 đầy đủ các môn học theo NQ 88 của Quốc hội; một số sách giáo khoa như cuốn Tiếng Việt lớp 1 của bộ sách Cánh Diều có nội dung chưa phù hợp, sai sót, cần phải chỉnh sửa bổ sung như Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã phát biểu tại Hội trường. Chưa có cơ chế chính sách phù hợp để thu hút giáo viên về công tác tại các địa bàn khó khăn, vùng sâu vùng xa. Công tác quản lý về dạy thêm, học thêm còn bất cập.
11. Lĩnh vực Văn hóa, thể thao và du lịch
Hành lang pháp lý, cơ chế chính sách từng bước được hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động văn hóa phát triển. Triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Quan tâm đầu tư bảo tồn giá trị các di sản văn hóa, nhất là di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số. Triển khai các chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch trong đó ưu tiên phát triển du lịch gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Du lịch Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong giai đoạn 2016 - 2019, hạ tầng phục vụ du lịch phát triển, sản phẩm du lịch đa dạng, có thương hiệu. Riêng năm 2020 ngành du lịch đã bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, cần được quan tâm hỗ trợ để phục hồi và phát triển.
Bên cạnh đó, công tác quản lý quy hoạch tại một số địa phương chưa chặt chẽ và hiệu quả; công tác quản lý điểm đến, quản lý chất lượng dịch vụ, đổi mới sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; khai thác quá mức tài nguyên du lịch; một số loại hình di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị mai một.
12. Lĩnh vực Y tế
Đẩy mạnh xây dựng, mở rộng, củng cố hệ thống y tế cơ sở, từng bước giảm tải các bệnh viện tuyến trung ương. Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế. Đội ngũ cán bộ y tế được củng cố về chất lượng, số lượng (90% số xã có bác sỹ); chất lượng dịch vụ y tế, nhất là y tế dự phòng được nâng cao, đã ứng dụng nhiều kỹ thuật hiện đại trong khám, chữa bệnh; thủ tục khám, chữa bệnh được đơn giản hóa, liên thông kết quả xét nghiệm được triển khai. Tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt 90,7%. Cơ bản hoàn thiện cơ chế quản lý đồng bộ về an toàn thực phẩm; hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm được phát hiện, xử lý kịp thời. Công tác phòng, chống dịch bệnh, nhất là dịch Covid-19 đạt nhiều kết quả nổi bật, được nhân dân và quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, chất lượng y tế còn chưa đồng đều giữa các tuyến, các vùng miền; việc quản lý, quản trị các cơ sở y tế, đặc biệt là cơ sở y tế lớn còn xảy ra một số vụ việc tiêu cực (như mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế); tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trung ương chưa được giải quyết dứt điểm; nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực phẩm do tập quán, sản xuất, mua bán, tiêu dùng nhỏ lẻ vẫn cao.
13. Lĩnh vực Lao động, thương binh và xã hội
Đã chỉ đạo rà soát, sắp xếp lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; cho phép thành lập cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài; thực hiện nhiều hoạt động gắn kết với doanh nghiệp, nâng cao kỹ năng cho người lao động. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu, tăng cường kết nối cung - cầu lao động. Quy mô, chất lượng nguồn nhân lực được mở rộng và từng bước cải thiện, nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong 5 năm qua đã giải quyết việc làm được cho trên 7,5 triệu lao động, trong đó lao động thanh niên chiếm khoảng 60%. Hỗ trợ tạo việc làm tăng gấp 3 lần so với giai đoạn trước. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm.
Tuy nhiên, cơ cấu đào tạo nghề chưa theo kịp thị trường lao động và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên còn cao. Bạo lực và xâm hại trẻ em ở một số nơi chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Kết quả tập trung cai nghiện ma túy còn hạn chế.
14. Lĩnh vực Thông tin và truyền thông
Rà soát, hoàn thiện quy định pháp luật về an toàn thông tin mạng; xây dựng cơ chế, chính sách cho phát triển viễn thông. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được tăng cường chia sẻ, sử dụng chung. Thị trường viễn thông đạt mức tăng trưởng cao; dịch vụ viễn thông được phát triển mạnh mẽ, đa dạng hóa, nhiều công nghệ mới được áp dụng; mạng 5G đã được cấp giấy phép thử nghiệm thương mại cho Viettel và MobiFone. Công tác bảo đảm an ninh, an toàn viễn thông, thông tin mạng được tăng cường.
Một số hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng bước đầu đã phát huy hiệu quả, tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số như Hệ thống báo cáo quốc gia, Hệ thống thông tin họp, xử lý công việc của Chính phủ, Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh. Trục liên thông văn bản quốc gia đã tạo chuyển biến trong việc sử dụng, gửi, nhận văn bản điện tử, đến nay đã có trên 3,3 triệu văn bản điện tử. Sau 9 tháng vận hành, Cổng dịch vụ công quốc gia đã tích hợp 2.200 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 với 84 triệu lượt người truy cập và 23 triệu hồ sơ được đồng bộ.
Tuy nhiên, tình trạng thông tin xấu độc trên mạng xã hội, Internet, thuê bao ảo, tin nhắn rác chưa được xử lý triệt để. Các cơ sở dữ liệu quốc gia đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, tiến độ triển khai chậm. Việc kết nối, chia sẻ, tích hợp các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quốc gia còn hạn chế. Số lượng dịch vụ công trực tuyến chưa cao, nhiều địa phương chưa chú trọng cung cấp dịch vụ công trên môi trường điện tử.
15. Lĩnh vực Nội vụ
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, khắc phục tình trạng cắt khúc, chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ, bảo đảm liên thông, đồng bộ, thống nhất, đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Ban hành các tiêu chí thành lập tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập; đồng thời, tăng cường cơ chế tự chủ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Xây dựng, thực hiện mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển dụng, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan; thực hiện chế độ hợp đồng làm việc có thời hạn đối với viên chức; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động gắn với tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế. Công tác tinh giản biên chế đã bám sát lộ trình, đã giảm 334.548 biên chế do Chính phủ quản lý; bảo đảm đến năm 2021 tinh giản tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015 theo Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy cơ quan chuyên môn ở một số địa phương vẫn chưa như mong muốn, tổ chức bộ máy chưa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thực hiện cơ chế tự chủ của một số đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm.
16. Lĩnh vực Tư pháp
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được triển khai nghiêm túc, chất lượng soạn thảo, thẩm định, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật được nâng cao. Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết có nhiều chuyển biến rõ rệt, cơ bản khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản. Chất lượng giải quyết khiếu kiện, tranh chấp quốc tế được nâng lên. Công tác thi hành án dân sự có chuyển biến rõ nét. Hoạt động giải quyết bồi thường nhà nước được thực hiện nghiêm túc, đúng luật. Công tác thi hành các bản án, quyết định hành chính được quan tâm.
Tuy nhiên, vẫn còn một số luật thuộc danh mục triển khai thi hành Hiến pháp 2013 chưa được trình Quốc hội. Chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao. Việc phân tích, đánh giá tác động của chính sách chưa được chú trọng đúng mức. Tỷ lệ Chủ tịch UBND, người đại diện UBND không tham gia đối thoại, không tham gia phiên tòa hành chính còn cao.
17. Lĩnh vực An ninh, trật tự, an toàn xã hội
Tiếp tục thực hiện các giải pháp phòng ngừa, phát hiện, nâng cao chất lượng điều tra, xử lý tội phạm, phòng ngừa oan sai. Nhiều vụ việc, vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm: Ma túy, xâm hại trẻ em, hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, “tín dụng đen”, mua bán người, sử dụng công nghệ cao, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…; tiếp tục triển khai cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm ma túy trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Công tác phòng, chống oan sai trong hoạt động điều tra hình sự được quan tâm. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Tuy thời gian thực hiện Nghị quyết của Quốc hội đến nay chưa nhiều nhưng với các giải pháp bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy được thực hiện đồng bộ, quyết liệt, nhờ đó đã giảm cả về số vụ, số người chết và tài sản thiệt hại do cháy, nổ.
Tuy nhiên, tại một số địa bàn còn tiềm ẩn điểm nóng, phức tạp về an ninh trật tự; số vụ phạm pháp hình sự vẫn có chiều hướng gia tăng; tội phạm ma túy vẫn diễn biến phức tạp; tội phạm chống người thi hành công vụ tăng; công tác quản lý người nghiện ma túy còn bất cập.
18. Lĩnh vực Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
Chính phủ đã xác định công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đã dành thời gian thích đáng để chỉ đạo giải quyết. Tình hình khiến nại, tố cáo và công tác tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng. Số vụ việc và số đoàn đông người giảm; chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng lên; tập trung rà soát, đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội và củng cố lòng tin của nhân dân với chính quyền.
Công tác phòng, chống tham nhũng được Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, đã thực hiện nhiều nhiệm vụ theo chương trình công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng; đã tiến hành thanh tra và kết luận nhiều vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, trong đó có một số vụ việc rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, mang tính đột phá trong đấu tranh xử lý tham nhũng; kiến nghị xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân vi phạm, thu hồi nhiều tiền, tài sản, đất đai có giá trị lớn. Tập trung hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng, xây dựng trình Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 6; ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22/4/2019 về tăng cường, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”; chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng.
Tuy nhiên, còn một số bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc lịch tiếp công dân định kỳ, chưa gắn việc tiếp công dân với đối thoại giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng chưa tương xứng với tình hình thực tế.
19. Công tác giải quyết tình hình di cư tự do
Tình trạng dân di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên đã giảm mạnh trong những năm gần đây, cả giai đoạn 2015 - 2020 chỉ còn 3.307 hộ di cư tự do (Miền núi phía Bắc là 1.267 hộ và Tây Nguyên là 2.040 hộ), giảm trên 10 lần so với giai đoạn trước. Nhiều huyện, xã ở các tỉnh Tây Nguyên trước đây là các điểm nóng về dân di cư tự do thì vài năm trở lại đây đã không còn dân di cư mới đến.
Tuy nhiên, nguồn vốn được bố trí còn hạn chế, nhiều dự án dở dang, chưa hoàn thành; người dân thiếu đất sản xuất, đời sống còn nhiều khó khăn; vẫn còn nhiều hộ dân di cư tự do chưa có chỗ ở ổn định theo quy hoạch ở nơi đến.
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết thời gian qua, Chính phủ, các Bộ, ngành đã nghiêm túc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều việc đã hoàn thành, cơ bản hoàn thành; một số việc mang tính chất thường xuyên, lâu dài, đang được triển khai tích cực và cũng có những việc triển khai còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra do có bất cập trong cơ chế, chính sách, việc triển khai chưa quyết liệt, chưa đồng bộ, thiếu nguồn lực cần thiết và cần có thời gian. Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương nỗ lực hơn nữa, tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội trong thời gian tới, nhất là những nội dung còn hạn chế, yếu kém. Chính phủ xin báo cáo và luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu mở đầu phiên chất vấn. - Ảnh: VGP |
Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình báo cáo về kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình khẳng định, với việc quán triệt và triển khai kịp thời, nghiêm túc các Nghị quyết của Quốc hội, hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân trong thời gian qua tiếp tục có những chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt công tác.
Các Tòa án đã hoàn thành nhiều chỉ tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản mà các Nghị quyết của Quốc hội đề ra; một số lĩnh vực tuy chưa đạt được theo yêu cầu nhưng đã có nhiều tiến bộ rõ nét.
Các Tòa án đã làm tốt và đẩy mạnh tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, thực hiện nghiêm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao đã biên soạn giáo trình và tổ chức nhiều khóa bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo về kỹ năng tổ chức tranh tụng tại phiên tòa.
Nhiều Tòa án địa phương đã chủ động xây dựng quy chế, chương trình phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp tổ chức các “Phiên tòa mẫu”, “Phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm”... Việc tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp đã thể hiện sự trang nghiêm, bình đẳng giữa các bên, tạo tâm lý thuận lợi cho luật sư khi tranh tụng.
Về bồi thường, từ ngày 1/10/2015 đến ngày 30/9/2020, các Tòa án đã thụ lý 19 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa án; đã giải quyết dứt điểm 15 trường hợp. Các Tòa án cũng đã giải quyết 60/76 vụ án dân sự mà người bị thiệt hại khởi kiện các cơ quan nhà nước yêu cầu bồi thường. Công tác giải quyết bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được các Tòa án thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật.
Công tác xây dựng, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, triển khai thi hành các đạo luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp, tố tụng của Tòa án nhân dân tối cao đảm bảo đúng tiến độ, yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tòa án nhân dân tối cao đã trình và được Quốc hội thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; ban hành 14 Nghị quyết, 1 Thông tư, 1 Chỉ thị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; 5 Tập giải đáp và 3 công văn thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vấn đề vướng mắc nghiệp vụ; phối hợp xây dựng, trình lãnh đạo liên ngành ký ban hành 15 Thông tư liên tịch. Tổ chức đối thoại trực tuyến định kỳ giữa Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với Thẩm phán toàn quốc để giải đáp những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử.
Về nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các vụ việc, Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra 14 giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét xử. Chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết, xét xử các loại án tiếp tục được nâng cao; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của Tòa án trong nhiều năm được hạn chế ở mức thấp, giảm dần qua các năm và hiện ở mức dưới 1,5%, đáp ứng chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra.
Trong xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường hợp kết án oan người không có tội.
Trong xét xử các vụ việc dân sự, đã làm tốt việc hướng dẫn các đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu của vụ án; khuyến khích công tác hòa giải; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết tốt vụ án.
Trong xét xử các vụ án hành chính, các Tòa án đã quan tâm đẩy nhanh tiến độ giải quyết, tính đến ngày 30/9/2020 không còn vụ án nào quá hạn luật định do nguyên nhân chủ quan của Tòa án.
Về thực hiện Nghị quyết số 83/2019/QH14 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, Tòa án nhân dân tối cao đã thành lập 38 Tòa gia đình và người chưa thành niên tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh. Các Tòa án đã tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng khẩn trương nghiên cứu hồ sơ nên hầu hết các vụ án xâm hại trẻ em đều được đưa ra xét xử nghiêm minh, trong thời hạn luật định. Mức hình phạt mà các Tòa án đã tuyên phạt bảo đảm nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật; tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.
Về các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng xét xử, thực hiện các nhiệm vụ chính trị theo Nghị quyết của Quốc hội trong thời gian tới được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình đề cập tới là: Tăng cường xây dựng thể chế, hoàn thiện pháp luật. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn pháp luật và phát triển án lệ.
Nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ việc bảo đảm nghiêm minh, khách quan, công bằng, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Làm tốt công tác hòa giải, đối thoại các vụ việc dân sự, vụ án hành chính.
Tiếp tục nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử; nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên tòa cho đội ngũ Thẩm phán. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Đẩy nhanh tiến độ, nâng cao tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Hoàn thiện Quy trình xử lý đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát và đôn đốc tiến độ giải quyết.
Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, Tòa án các cấp nhất là các chức danh tư pháp trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác đào tạo, đề cao kỷ cương, kỷ luật, tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên, thực chất, kiện toàn đội ngũ lãnh đạo các Tòa án sau Đại hội Đảng các cấp.
Đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở và trang cấp các trang thiết bị làm việc cho các Tòa án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính - tư pháp, đảm bảo công khai minh bạch hoạt động của Tòa án.
Trách nhiệm, quyết tâm rất cao của Chính phủ
Phát biểu mở đầu Phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nêu rõ, theo Chương trình kỳ họp, Quốc hội sẽ dành 2 ngày rưỡi để tiến hành xem xét, chất vấn việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quy trong nhiệm kỳ khóa XIII. Đây là lần thứ 2 trong nhiệm kỳ, Quốc hội tiến hành xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn theo đúng quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hột đồng nhân dân (lần thứ nhất là tại Kỳ họp thứ Sáu - kỳ họp giữa nhiệm kỳ).
Liên quan đến triển khai hoạt động này, Chủ tịch Quốc hội cho biết, ngay từ rất sớm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Kế hoạch để các cơ quan chức năng chủ động triển khai thực hiện. Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao đã tích cực chuẩn bị và gửi đến các đại biểu Quốc hội 20 báo cáo về các lĩnh vực, trong đó nêu khá chi tiết, cụ thể việc thực hiện đối với từng nội dung, lĩnh vực được nêu trong các nghị quyết của Quốc hội. Trên cơ sở đó, các cơ quan của Quốc hội đã thẩm tra, đánh giá cụ thể về các nội dung đã thực hiện. Tổng Thư ký Quốc hội đã có báo cáo tổng hợp ý kiến thẩm tra về những nội dung này.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu. - Ảnh: VGP |
Qua các báo cáo, Chủ tịch Quốc hội nhận thấy, về tổng thể đã nổi lên nhiều kết quả tích cực, thể hiện tinh thần nghiêm túc, trách nhiệm, quyết tâm rất cao của Chính phủ, các bộ, ngành cũng như từng thành viên Chính phủ và các trưởng ngành trong việc triển khai các yêu cầu của Quốc hội. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng những kết quả đạt được đã góp phần không nhỏ trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tạo niềm tin trong Nhân dân và xã hội.
Phiên chất vấn này là phiên cuối cùng về hoạt động chất vấn của Quốc hội khóa XIV. Mục đích chính là đánh giá lại một cách toàn diện kết quả triển khai các yêu cầu của Quốc hội được nêu trong các nghị quyết về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến nay. Với tinh thần đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần chủ động, sâu sát, tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề còn tồn tại, những nhiệm vụ chưa hoàn thành theo yêu cầu của Quốc hội, làm rõ nguyên nhân, đề ra các yêu cầu cần tiếp tục thực hiện để xây dựng Nghị quyết chuyển giao cho Quốc hội khóa sau giám sát, theo dõi.
Cách thức tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn sẽ không theo nhóm vấn đề mà đại biểu Quốc hội tiến hành chất vấn lĩnh vực nào thì người đứng đầu các cơ quan liên quan có trách nhiệm trực tiếp trả lời theo điều hành của Chủ tọa Kỳ họp. “Riêng đối với lĩnh vực thuộc trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Bộ trưởng Bộ Y tế, do đã thay đổi nhiệm vụ mới và đang được Quốc hội tiến hành các thủ tục phê chuẩn nên chất vấn của các đại biểu Quốc hội sẽ được trả lời bằng văn bản. Những nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ, thì Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực trả lời, làm rõ thêm. Cuối phiên chất vấn, Thủ tướng Chính phủ sẽ thay mặt Chính phủ phát biểu, giải trình làm rõ thêm một số nội dung thuộc trách nhiệm của Chính phủ”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Tiếp tục phát huy ứng dụng của công nghệ thông tin, lần này, việc đăng ký chất vấn và tranh luận của đại biểu Quốc hội sẽ được thực hiện thông qua App Quốc hội trên Ipad của mỗi đại biểu Quốc hội. Chủ tọa điều hành theo hướng mỗi lượt chất vấn sẽ mời 3 - 5 đại biểu đặt câu hỏi; các đại biểu Quốc hội nêu chất vấn không quá một phút và người trả lời chất vấn cũng không quá 3 phút đối với mỗi chất vấn của đại biểu. Thời gian tranh luận cho mỗi đại biểu không quá 2 phút, mỗi đại biểu tranh luận không quá 2 lần.
Chủ tịch Quốc hội tin tưởng rằng, với sự chủ động chuẩn bị từ rất sớm của các cơ quan, kinh nghiệm qua nhiều kỳ chất vấn, phiên chất vấn cuối cùng của nhiệm kỳ Quốc hội này sẽ diễn ra chất lượng, hiệu quả, sôi nổi với tinh thần xây dựng, trách nhiệm cao, đáp ứng được sự kỳ vọng của cử tri và Nhân dân cả nước.
Sau khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu khai mạc, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí trình bày Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trình bày Báo cáo tổng hợp ý kiến thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII.
Kết quả tích cực, ấn tượng
Trước đó, từ ngày 3 đến ngày 5/11, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội.
Trong 3 ngày thảo luận, đã có 112 đại biểu Quốc hội phát biểu, có 4 đại biểu phát biểu 2 lần, có 18 đại biểu tham gia tranh luận.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và 7 Bộ trưởng các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã tham gia phát biểu, giải trình thêm một số vấn đề liên quan.
Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội đều thống nhất với nhiều nội dung trong các báo cáo của Chính phủ và các báo cáo thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội.
Các ý kiến cơ bản thống nhất với đánh giá của Chính phủ về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2020 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương năm 2021.
Các đại biểu Quốc hội đều cho rằng, năm 2020 là năm đặc biệt khó khăn, thậm chí còn nặng nề hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, do đại dịch COVID-19 xảy ra trên toàn cầu làm cho kinh tế toàn cầu suy thoái. Các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, sản xuất, kinh doanh bị đình trệ. Với một nền kinh tế hội nhập sâu và có độ mở lớn, chúng ta đã bị ảnh hưởng rất nặng nề, cùng với những thiệt hại do thiên tai, bão, lũ trong thời gian vừa qua đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân.
Các đại biểu Quốc hội đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể hóa kịp thời, linh hoạt của Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, khẩn trương của Chính phủ, sự quyết tâm, đoàn kết, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước.
Đến nay, chúng ta đã cơ bản kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, từng bước phục hồi hoạt động kinh tế - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hoạt động đối ngoại đạt kết quả tích cực tạo đà thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội các năm tiếp theo.
“Đây là kết quả tích cực, rất ấn tượng trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu đang bị suy giảm sâu. Khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước”, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển phát biểu./.