Giao thông Việt Nam trong tầm nhìn xanh, hiện đại, đồng bộ và bài bản

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Ngành giao thông vận tải (GTVT) đã hoàn thành gần như đồng thời 5 quy hoạch chuyên ngành để tạo sự kết nối, đồng bộ cho hệ thống “huyết mạch” của đất nước. Báo Đấu thầu có cuộc trao đổi với ông Phạm Hoài Chung, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển GTVT thuộc Bộ GTVT về bức tranh quy hoạch giao thông tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng như các giải pháp huy động nguồn lực, hiện thực hóa mạng lưới giao thông Việt Nam.
Đến năm 2030, nguồn vốn xã hội hóa, huy động ngoài ngân sách nhà nước cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông là khoảng 980 nghìn tỷ đồng, chiếm 52% tổng nhu cầu vốn. Ảnh: Huyền Trang
Đến năm 2030, nguồn vốn xã hội hóa, huy động ngoài ngân sách nhà nước cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông là khoảng 980 nghìn tỷ đồng, chiếm 52% tổng nhu cầu vốn. Ảnh: Huyền Trang

Bộ GTVT đã hoàn thiện 5 quy hoạch nhằm bảo đảm mục tiêu hạ tầng đi trước 1 bước, tạo nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Bức tranh giao thông của đất nước trong tương lai được phác họa với dáng vóc như thế nào, thưa ông?

Sau khi Luật Quy hoạch ra đời, ngành GTVT đã triển khai lập đồng thời 5 quy hoạch chuyên ngành và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gần như cùng một thời điểm 4 quy hoạch vào năm 2021 - 2022 (đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và hàng hải), riêng quy hoạch hệ thống cảng hàng không được phê duyệt vào tháng 6/2023.

Ông Phạm Hoài Chung

Ông Phạm Hoài Chung

Hệ thống 5 quy hoạch được lập cùng thời điểm sẽ tạo sự đồng bộ trong kết nối giữa các phương thức vận tải. Đồng thời, lần đầu tiên công tác dự báo tổng thể về nhu cầu vận tải được thực hiện sẽ phân bổ hợp lý, tạo ra sự kết nối, đồng bộ, liên hoàn giữa các phương thức ngay từ khi ý tưởng quy hoạch. Theo đó, hệ thống giao thông tương lai đến năm 2030, tầm nhìn 2050 được hoạch định một cách hiện đại, đồng bộ và bài bản, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Có thể kể đến một số mục tiêu lớn, có tính động lực, lan tỏa và tạo điểm nhấn phát triển hạ tầng trong tương lai như: đầu tư, phát triển theo quy hoạch hệ thống đường bộ cao tốc, đến năm 2025 phấn đấu có khoảng 3.000 km; 2030 khoảng 5.000 km và đến năm 2050 khoảng 9.000 km. Việc đầu tư phải bảo đảm tiêu chí các cao tốc kết nối tới trung tâm của 63 tỉnh, thành phố; mở ra không gian phát triển, tăng cường kết nối các vùng, miền. Cụ thể, tiếp tục đầu tư và hoàn thiện đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông; khởi công xây dựng các cao tốc trục ngang như: cao tốc Buôn Ma Thuột - Khánh Hòa, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cao tốc TP.HCM - Mộc Bài, cao tốc TP.HCM - Chơn Thành, Vành đai 4 Vùng Thủ đô Hà Nội, Vành đai 3 TP.HCM và đầu tư xây dựng thêm các cao tốc ở Tây Bắc kết nối đến các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang…

Đối với hệ thống đường sắt, định hướng phát triển đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, dự kiến khởi công xây dựng trước năm 2030. Trong đó, sẽ triển khai trước 2 đoạn tuyến Hà Nội - Vinh; TP.HCM - Nha Trang. Tuyến đường sắt này sẽ giải quyết nhu cầu đi lại của người dân trên trục Bắc - Nam và tiếp tục thông tuyến trước năm 2045. Đồng thời, định hướng nghiên cứu các tuyến đường sắt kết nối đến các cảng biển lớn như: cảng biển Hải Phòng, cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu… và một số tuyến đường sắt khác.

Đối với lĩnh vực hàng hải, quy hoạch cảng biển hoạch định 36 cảng biển quốc gia. Hệ thống cảng biển của Việt Nam là một trong những hệ thống cảng biển tiên tiến của thế giới, hướng tới hệ thống cảng biển xanh, thông minh, trong tương lai đáp ứng được việc thực hiện cam kết COP26 vào năm 2050. Tiếp tục xây dựng các khu bến của cảng biển Hải Phòng; xây dựng cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng), Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ (TP.HCM) và cảng Trần Đề (Sóc Trăng)… Hiện đội tàu của Việt Nam đứng thứ 3 của khu vực ASEAN và thứ 27 trên thế giới, được đánh giá có những bước tăng trưởng mạnh với 1.477 tàu với tổng trọng tải khoảng 11,6 triệu DWT, tổng dung tích khoảng 7 triệu GT. Phát triển vận tải biển Bắc - Nam và vận tải ven biển đang đóng góp rất lớn cho gom và giải tỏa hàng hóa trên hành lang Bắc Nam. Thị phần của vận tải biển và ven biển lên tới 48% nhu cầu vận chuyển trên hành lang Bắc Nam do có thế mạnh đường bờ biển dài.

Với đường thủy nội địa, tập trung phát triển các tuyến vận tải thủy nội địa theo hướng logistics xanh, đẩy mạnh việc đánh thức tiềm năng vận tải thủy trên các hành lang vận tải chính nhằm gom hàng cho cảng biển, giảm chi phí vận tải, giảm phát thải ra môi trường. Đồng thời, đẩy mạnh khai thác hiệu quả kênh đào nối sông Đáy và sông Ninh Cơ (Ninh Bình) là một trong những dự án trọng điểm để khơi thông luồng đường thủy nội địa trên hành lang đường thủy nội địa số 2 của phía Bắc. Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và TP.HCM, đường thủy nội địa góp phần gom hàng hóa cho cảng biển lên tới 70 - 80%. Đây là thế mạnh lớn của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng như khu vực Đông Nam Bộ tới các khu cảng biển TP.HCM, Vũng Tàu, Đồng Nai để phát triển hoạt động vận tải xuất nhập khẩu.

Đối với hàng không, trong quy hoạch sẽ hoạch định nâng cấp, cải tạo các cảng hàng không lớn trở thành cảng hàng không của khu vực và quốc tế. Đồng thời, nghiên cứu cảng hàng không thứ 2 của Vùng Thủ đô; xây dựng nhà ga của Cảng hàng không quốc tế Long Thành, phấn đấu đưa vào khai thác giai đoạn 1 vào năm 2025 với công suất khoảng 50 triệu lượt hành khách mỗi năm… Hình thành hệ thống cảng hàng không tại các thành phố để giải quyết nhu cầu đi lại, kết nối nhanh khi có nhu cầu như: sân bay Lai Châu, sân bay Kon Tum (Măng Đen)…, góp phần đa dạng các loại hình vận tải, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Theo kế hoạch, đến năm 2050, mạng lưới đường bộ quốc gia có hơn 9.000 km đường cao tốc

Theo kế hoạch, đến năm 2050, mạng lưới đường bộ quốc gia có hơn 9.000 km đường cao tốc

Tới thời điểm này, có 21 địa phương đã được phê duyệt quy hoạch, nhiều địa phương đang trong quá trình hoàn tất trình phê duyệt quy hoạch. Trong hợp phần GTVT, các quy hoạch tỉnh cần phải lưu ý gì để có thể khớp nối với quy hoạch của ngành GTVT?

Việc các địa phương gấp rút hoàn thành quy hoạch tỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khớp nối đồng bộ hạ tầng GTVT từ tầm quốc gia đến địa phương. Việc triển khai phương án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trong quy hoạch tỉnh là một hợp phần hết sức quan trọng. Để phát huy hiệu quả kết nối và lan tỏa, hạ tầng giao thông khung của quốc gia phải được khớp nối với hệ thống giao thông địa phương một cách đồng bộ, đấu nối phù hợp.

Trong quá trình thực hiện, các địa phương cần lưu ý: hạ tầng giao thông kết nối như đường gom, điểm giao cắt, các nút giao với hệ thống đường cao tốc phải được tính toán chi tiết; việc dự báo lưu lượng, nhu cầu giao thông vận tải trên hệ thống đường địa phương cần cẩn trọng, đủ thông số đầu vào để định hướng cho hoạt động đầu tư được đồng bộ với nhu cầu, điều kiện giao thông của địa phương, tránh lãng phí, dàn trải.

Khi làm quy hoạch với các định hướng phát triển tuyến đề xuất lên cao tốc, quốc lộ cần nghiên cứu kỹ Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch ngành quốc gia của 5 lĩnh vực đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không để tránh xung đột, quan trọng nhất là phải phù hợp với quy hoạch của ngành GTVT đi qua địa bàn.

Bộ GTVT đang lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương để hoàn thiện Dự thảo điều chỉnh Quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam, trong đó điểm nhấn là việc bổ sung cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Ông đánh giá thế nào về vai trò, tầm quan trọng của dự án này?

Đây không phải là vấn đề mới, kể từ khi Quốc hội phê duyệt Nghị quyết 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã có nội dung phải nghiên cứu, xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Thực hiện theo Luật Quy hoạch, việc quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam sẽ phải cập nhật, nghiên cứu, triển khai sâu hơn dự án này. Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ giao UBND TP.HCM nghiên cứu, thuê tư vấn lập, đề xuất.

Cần Giờ được xác định là cảng trung chuyển quốc tế có tầm cỡ khu vực và thế giới với chức năng chính là trung chuyển hàng hóa, gom hàng từ các quốc gia láng giềng. Vị trí xây dựng cảng Cần Giờ được xác định có nhiều lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn hàng quốc tế tới từ các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Thái Lan, Brunei, Philippines, khu vực phía Nam Trung Quốc… sẽ góp phần thúc đẩy ngành vận tải biển Việt Nam ngày càng phát triển.

Tổng nhu cầu vốn cho phát triển hạ tầng GTVT thời gian tới là rất lớn. Theo ông, làm thế nào để huy động vốn hiệu quả và hiện thực hóa các nội dung đưa ra trong các quy hoạch nêu trên?

Trên cơ sở 5 quy hoạch chuyên ngành, chúng tôi đã tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đến năm 2030 cho 5 phương thức vận tải khoảng 2.100 - 2.200 nghìn tỷ đồng (chưa bao gồm chi phí bảo trì hạ tầng). Trong đó, tổng nhu cầu vốn theo khả năng cân đối nguồn lực là 1.874 nghìn tỷ đồng.

Trong 1.874 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn ngân sách nhà nước được xác định đầu tư khoảng 894 nghìn tỷ đồng (chiếm 48%); nguồn vốn xã hội hóa, huy động ngoài ngân sách nhà nước khoảng 980 nghìn tỷ đồng (chiếm 52%).

Lĩnh vực hàng hải, đường thủy nội địa có tỷ trọng huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước cao nhất. Theo tính toán, đến năm 2030, tỷ trọng huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước cho lĩnh vực hàng hải khoảng 95%; đường thủy nội địa khoảng 82%.

Trong tất cả các quy hoạch đều đề xuất nhiều giải pháp huy động nguồn lực. Nhưng trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn chế thì thu hút đầu tư cho lĩnh vực GTVT từ nhiều nguồn khác là giải pháp quan trọng cần được cân nhắc.

Trên thực tế, đồng bộ với các định hướng quy hoạch là các khung chính sách để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Trong đó, thúc đẩy phân cấp, phân quyền trong đầu tư hạ tầng giao thông là một trong những giải pháp quan trọng để thu hút nguồn lực của địa phương tham gia vào hiện thực hóa hệ thống hạ tầng của các quy hoạch. Việc giải quyết vật liệu khan hiếm, vật liệu thay thế đang được các quy hoạch đưa ra các định hướng để tháo gỡ, hình thành khung hạ tầng mạnh mẽ trong tương lai.

Bên cạnh đó là xã hội hóa hệ thống hạ tầng giao thông như các công trình hàng không, cảng biển, đường thủy nội địa để huy động mọi nguồn lực có thể tham gia đầu tư. Việc nhượng quyền khai thác đối với tài sản đầu tư từ ngân sách nhà nước để tăng cường nguồn vốn cho giao thông vận tải cũng được tính đến. Cùng với đó, cần nghiên cứu thêm các hình thức đầu tư khác để tạo nguồn lực phát triển hạ tầng giao thông.

Trong thập kỷ tới, cần chú trọng đầu tư phát triển các loại hình GTVT xanh, bền vững, góp sức thực hiện các mục tiêu của COP26. Cụ thể là thúc đẩy vận tải thủy nội địa, logistics xanh cũng như thu hút đầu tư, dùng nguồn lực đầu tư cho đường sắt tốc độ cao trên trục xương sống Bắc - Nam để hiện đại hóa, kết nối vào mạng đường sắt ASEAN, giảm tải cho giao thông đường bộ, giảm chi phí logistics. Đồng thời, cần thúc đẩy đầu tư cho hệ thống cảng hàng không, sân bay để tăng cường hội nhập quốc tế, tạo điểm nhấn khung hạ tầng mang tính cạnh tranh khu vực và quốc tế…

Chuyên đề