Năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đã về đích thành công, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Ảnh: Vũ Long |
Tăng tốc ngược chiều gió
“Chúng ta đang sống trong bối cảnh thế giới VUCA (biến động - Volatility, bất định - Uncertainty, phức tạp - Complexity và mơ hồ - Ambiguity). Cuối năm 2021, các doanh nghiệp (DN) ngành may dự báo năm 2022 sẽ là một năm thành quả của ngành may, phát triển rất tốt cho DN Việt Nam, trong đó có May 10. Dự báo đó không sai cho đến tháng 6/2022. Từ sau đó, tình hình thay đổi chóng mặt. Trong ngành may, nhiều đơn vị thiếu đơn hàng từ tháng 7, 8, một số từ tháng 10, May 10 thiếu ít hơn…”, ông Thân Đức Việt - Tổng giám đốc Tổng công ty May 10 chia sẻ tại một hội thảo gần đây.
Tác động của bối cảnh thế giới như cách nói của ông Thân Đức Việt, đã tạo ra khó khăn, thách thức với rất nhiều “cơn gió ngược”, thậm chí là “giông bão” đối với DN nói riêng và nền kinh tế Việt Nam trong năm 2022 nói chung.
Thực tế, năm 2022 là một năm khó khăn chồng chất khó khăn. Lạm phát cao tại nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu; chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng tiếp tục bị đứt gãy sau khi đã rất căng thẳng trong thời gian dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu; chính sách tài khóa, tiền tệ được nhiều nền kinh tế điều chỉnh theo hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát, đã tác động không nhỏ tới phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Thậm chí, một số nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái…
Với một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng như Việt Nam, tác động từ tình hình thế giới là khó tránh khỏi. Nhưng các số liệu kinh tế năm 2022 cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã "ngược chiều gió" về đích thành công, đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Chí Dũng, quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tính tự chủ được cải thiện; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn; cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển sang chiều sâu, tăng độ mở hội nhập, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn. Khu vực tư nhân trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị - xã hội ổn định, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại chuyển biến tích cực, niềm tin của cộng đồng DN và xã hội tăng lên... góp phần cải thiện không ngừng đời sống của người dân.
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đánh giá, năm 2022, kinh tế Việt Nam về cơ bản đã vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và đang lấy lại đà tăng trưởng vốn có. Tiêu dùng phục hồi mạnh mẽ, khu vực DN đã phản ứng hiệu quả trước các cơ hội mở ra sau đại dịch, nhanh chóng đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu. Tốc độ giải ngân vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh cho thấy niềm tin vững chắc của nhà đầu tư nước ngoài về triển vọng kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Thực tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam đạt trên 730 tỷ USD trong năm 2022 là một minh chứng cho nhận định này.
Theo ông Trần Tuấn Anh, việc kinh tế Việt Nam năm 2022 không bị suy thoái mà phục hồi, tăng trưởng mạnh mẽ đã khẳng định nội lực và khả năng chống chịu khá tốt của nền kinh tế. Những kết quả này có được là nhờ chủ trương lãnh đạo đúng đắn và xuyên suốt của Đảng về ưu tiên củng cố các nền tảng vĩ mô trong quá trình phát triển, chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa hợp tác, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; sự đồng hành của Quốc hội và sự chỉ đạo, điều hành chủ động, sáng tạo, linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ…
Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên nhận định, trong điều hành, Chính phủ đã thể hiện bản lĩnh, năng lực “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đồng thời linh hoạt, nhạy bén, quyết đoán và quyết liệt hành động. Trong đó, bài học tốt là chống dịch nhưng không làm đứt chuỗi sản xuất và mối liên kết giữa các thị trường.
Còn theo ông Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, kinh tế năm 2022 đạt được kết quả tích cực do nhiều yếu tố tác động. Khái quát chung, có thể nêu ba lý do chính là: Việt Nam kịp thời chuyển trạng thái chống dịch Covid-19, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế trở lại bình thường; kiên trì dùng nhiều chính sách, giải pháp phục hồi kinh tế và ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát; các chỉ số tăng trưởng được đặt trong tương quan với mức nền khá thấp của năm trước.
Ông Hồ Sỹ Hùng cũng đánh giá cao năng lực điều hành của Chính phủ. Lấy ví dụ thách thức về lãi suất, tỷ giá hiện nay, xét trên tổng thể, Việt Nam thể hiện được sự chủ động, linh hoạt, điều hành chắc chắn, phù hợp tình hình và biến động thực tế; tín dụng được kiểm soát, đảm bảo an toàn hoạt động của toàn hệ thống, trong điều kiện các nước thắt chặt. Kết quả này góp phần quan trọng vào ổn định vĩ mô.
"Giông bão" phía trước
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ước tính GDP năm 2022 tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%; khu vực dịch vụ khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ 9,99% - tốc độ tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022.
CPI cả năm 2022 tăng 3,15% so với năm 2021, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2022 tăng 2,59% so với năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,15%), phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, xăng, dầu và gas tăng.
Dù đạt nhiều kết quả đáng phấn khởi, nhưng theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, như nhiều quốc gia khác trên thế giới, với độ mở của nền kinh tế lớn, khi những tác động từ bên ngoài và tồn tại tích tụ lâu nay của nền kinh tế tác động mạnh đến dư địa điều hành chính sách, thị trường vốn, thị trường bất động sản, từ đầu quý IV/2022, hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động việc làm của người dân, DN chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Lãi suất tăng nhanh tạo áp lực lớn về huy động vốn, tăng chi phí sản xuất; động lực thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường lớn gặp nhiều thách thức khi đơn hàng, thị trường bị thu hẹp do sức cầu suy giảm... Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức và tiềm ẩn nhiều rủi ro như năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh chưa cao; các đột phá chiến lược chưa có sự bứt phá, chưa đáp ứng yêu cầu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, quản lý phát triển xã hội chưa theo kịp yêu cầu... và các yếu kém này còn chậm được khắc phục.
Trong khi vẫn còn nhiều thách thức nội tại, bối cảnh thế giới năm 2023 theo dự báo của nhiều tổ chức, chuyên gia trong và ngoài nước tiếp tục biến động rất phức tạp, khó lường, khó khăn hơn năm 2022. Lạm phát duy trì mức cao trên toàn cầu; chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài đi kèm suy giảm giá trị đồng tiền tại nhiều khu vực và quốc gia làm suy giảm sản xuất của nhiều ngành, lĩnh vực; thị trường bất động sản ở nhiều nước gặp khó khăn hơn. Khu vực DN bị ảnh hưởng nặng nề, thất nghiệp gia tăng. Nhu cầu tiêu dùng tại nhiều quốc gia giảm sút. Nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro, bất ổn về tài chính, tiền tệ, nợ công, an ninh năng lượng, an ninh lương thực trên toàn cầu gia tăng... sẽ tác động mạnh, kéo dài, trên phạm vi lớn tới hầu hết các quốc gia, nền kinh tế. Một số quốc gia có dấu hiệu rơi vào suy thoái kinh tế.
Những biến động trên thế giới diễn ra tương đối mạnh, đặc biệt là việc thắt chặt chính sách tiền tệ, theo ông Andrea Coppola - Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, sẽ làm trầm trọng thêm những trở ngại đối với các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển.
Các dự báo cho năm 2023 đến nay hầu hết đều theo hướng cho rằng, kinh tế toàn cầu sẽ phát triển chậm lại, tác động tới tăng trưởng của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn sáng trong bức tranh chung, nhưng khó khăn của các đối tác sẽ mang đến thách thức lớn cho khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong Ấn bản bổ sung định kỳ của Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á (ADO) 2022 công bố ngày 14/12/2022, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định, dù nền kinh tế Việt Nam đang vận hành tốt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều bất ổn, nhưng rủi ro đối với triển vọng kinh tế ngày càng gia tăng. Tuy thương mại tiếp tục tăng trưởng nhưng các dấu hiệu cho thấy nhu cầu toàn cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang sụt giảm, các đối tác thương mại lớn suy yếu. Đó là lý do ADB điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2023 xuống còn 6,3%.
Ngân hàng HSBC trong báo cáo mới phát hành cho rằng, những thách thức từ bên ngoài nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng nặng nề hơn trong năm 2023, đặc biệt sau khi những hiệu ứng từ mở cửa trở lại nhạt dần đi và tác động của lạm phát cao bắt đầu ảnh hưởng dù chậm trễ. HSBC dự báo, tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 sẽ đạt mức 5,8% (so với dự báo cũ là 6%).
Động lực nào cho tăng trưởng năm 2023?
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, bên cạnh những bất ổn, vẫn còn dư địa để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế như chính sách kiểm soát vĩ mô của Chính phủ khá hiệu quả và chủ động, đầu tư công có khả năng phục hồi mạnh trong năm 2023, giải ngân đầu tư hạ tầng của Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu tập trung trong năm 2023, lạm phát vẫn trong phạm vi an toàn, du lịch và tiêu dùng tiếp tục phục hồi tốt…
Các khoản đầu tư và những cải cách trong khuôn khổ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, theo Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), sẽ đóng vai trò mấu chốt trong việc khắc phục tình trạng tổn thương của nền kinh tế, bù đắp cho quá trình tích luỹ vốn diễn ra chậm chạp trong giai đoạn đại dịch và thúc đẩy tăng năng suất.
Ông Hồ Sỹ Hùng cho rằng, nhiều chương trình, kế hoạch phát triển trung - dài hạn đã được phê duyệt; kế hoạch, hồ sơ giải ngân đầu tư công, quy trình thủ tục đã được chuẩn bị kỹ trong năm 2022; các gói thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia đã được thông qua, nên sẽ có thể triển khai nhanh hơn trong năm tới, tác động nhanh hơn đến nền kinh tế. Năm 2023, đầu tư công có thể là cứu cánh. Đồng thời, xử lý điểm nghẽn cũng sẽ tạo ra động lực cho tăng trưởng. Theo ông Hùng, xét về tổng thể, có thể thấy điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là nhiều cơ chế quản lý, chính sách pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư kinh doanh. Chẳng hạn, các dự án liên quan đến bất động sản còn vướng mắc nhiều ở Luật Đất đai, hay đầu tư công vẫn còn vướng ở quy trình, thủ tục… Do đó, giải quyết nút thắt thể chế là yếu tố quan trọng mà nếu tháo gỡ được sẽ tạo đà thúc đẩy tăng trưởng. Một số bất cập trên thị trường đất đai, tài chính, bất động sản, lao động, y tế đã được nhận diện và đang được tiếp cận tháo gỡ... Với những lợi thế này, cơ hội để "vượt điểm nghẽn" trong năm tới là rất lớn.
Nhiều chuyên gia cũng nhận định, đầu tư công, trị trường nội địa, du lịch, dịch vụ, khơi thông nguồn vốn cho DN sẽ góp phần quan trọng cho tăng trưởng năm 2023.
Từ khóa quan trọng là “hành động” và “trách nhiệm”
Quốc hội, Chính phủ nhất quán mục tiêu tổng quát năm 2023 là tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế…
Các chỉ tiêu chủ yếu được xác định: tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4 - 25,8%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5 - 6%...
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, để hóa giải, khắc phục những khó khăn, thách thức, đạt được cao nhất các mục tiêu đề ra, cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong năm 2023 và định hướng lớn đã đề ra.
Bộ KH&ĐT cho rằng, cần chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô chủ động, linh hoạt, sáng tạo, kịp thời, hiệu quả, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn theo hướng bảo đảm ổn định trong điều kiện có nhiều bất định. Cùng với đó, kiên định, nhất quán, bản lĩnh, tự tin trong điều hành trước sự biến động, tác động nhiều chiều từ thế giới và trong nước. Khi các yếu tố rủi ro, bất định từ bên ngoài càng lớn, việc chủ động kiến tạo các động lực tăng trưởng mới ở trong nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định, năm 2023 có hệ thống giải pháp khá toàn diện, đầy đủ trên mọi lĩnh vực. Quan trọng là thực thi kịp thời, tốc độ, quyết liệt các giải pháp đã đề ra, hoàn thành các nhóm giải pháp đúng mục tiêu, đúng thời hạn. Từ khóa quan trọng của năm 2023, theo ông Hiếu, là “hành động” và hành động cần đúng, kịp thời. Ngoài giải pháp đã có, Chính phủ cần tiếp tục bám sát khó khăn của cộng đồng DN để kịp thời phát hiện, giải quyết.
Ông Hồ Sỹ Hùng nhấn mạnh yếu tố quan trọng là tăng tính trách nhiệm trong thực hiện. Những nhiệm vụ như phối hợp hài hòa các chính sách kinh tế vĩ mô, cân bằng giữa lãi suất và tỷ giá, giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng, giữa hỗ trợ người dân, DN và cân đối ngân sách trước mắt và lâu dài; tháo gỡ vướng mắc, nhất là về pháp lý và vốn cho DN; đẩy nhanh giải ngân đầu tư công... là những việc rất cần thiết nhưng phức tạp, có sức ép rất lớn tại từng thời điểm nhất định, đòi hỏi thái độ dám chịu trách nhiệm trong điều hành. Đồng thời, năm 2023, cuộc chiến chống tiêu cực, tham nhũng còn tiếp tục nên tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm có thể vẫn tiếp diễn, đòi hỏi giải pháp mềm dẻo, linh hoạt, đảm bảo cơ chế bảo vệ những người dám nghĩ dám làm.
Thực tế thời gian qua, Chính phủ đã thể hiện tinh thần dám nghĩ dám làm, hành động quyết liệt, sáng tạo, kịp thời - là yếu tố quan trọng đưa đến những kết quả phát triển kinh tế năm 2022. Thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo, điều hành là “đoàn kết, kỷ cương; bản lĩnh, linh hoạt; đổi mới sáng tạo; kịp thời, hiệu quả”. Thủ tướng yêu cầu nắm chắc tình hình, lựa chọn công việc ưu tiên, vấn đề phù hợp; tích cực, chủ động, phản ứng chính sách kịp thời; các bộ, ngành phải xem công việc của người dân, DN như công việc của mình; làm ngày làm đêm, làm hết việc chứ không hết giờ…