![]() |
Tàu điện cũ có 5 tuyến, đi ra 6 ngả, có lẽ đã định hình hướng phát triển của Hà Nội ngay từ đầu thế kỷ 20. Ấn tượng về tàu điện leng keng trên mặt đất không chỉ trong lớp người gần 50 tuổi mà còn hiện diện nơi các thế hệ trẻ hơn, ấy là nhờ được khắc họa trong thơ ca, phim ảnh.
Tại sao cái ký ức đó lại ngự trị trong diễn ngôn về Hà Nội, dù số người thực sự được đi tàu điện mà sống đến giờ có lẽ không nhiều?
Nếu chỉ thuần túy là một loại phương tiện giao thông công cộng như xe buýt thì cũng chưa chắc đã có một dư âm lâu dài lạ lùng như thế.
Tàu điện, đó là một cuộc hành trình phản chiếu sự hình thành và phát triển của một thành phố. Hành trình ấy chấm dứt khi thành phố bước sang thời kỳ đổi mới, chuyển sang giai đoạn bùng nổ trào lưu cá nhân hóa phương tiện đi lại, đồng dạng với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước mà sau gọi là kinh tế thị trường. Tàu điện vì thế đã chấm dứt vị thế như một đại diện của nền kinh tế cũ, nhưng cũng gói trọn sự hoài niệm về 9 thập niên liền mạch từ thời thuộc địa, chiến tranh và hòa bình.
5 tuyến tàu điện gần như nối trọn một không gian văn hóa, từ khu vực trung tâm là Bờ Hồ (hồ Hoàn Kiếm) tới các cửa ô và vùng ven đô, khéo léo tăng cường sự kết nối vào đúng lúc cuộc khai thác thuộc địa và sự đô thị hóa theo hướng hiện đại bắt đầu ở Hà Nội.
Mặc dù Sở Xe điện ở phố Thụy Khuê, nhưng bến tàu trung tâm được đặt ở Bờ Hồ, gắn với trung tâm của Hà Nội trong quy hoạch của người Pháp. Ngay từ nửa cuối thập niên 1880, hồ Hoàn Kiếm đã được quy hoạch là “cái gạch nối vui tươi giữa khu phố Pháp và khu phố bản địa”, trở thành trung điểm giữa khu 36 phố phường của người Việt ở phía Bắc hồ và khu phố Tây ở phía Nam hồ. Các thiết chế hành chính quan trọng của đô thị cũng được lập ra bên hồ, như Tòa đốc lý, Bưu điện, trung tâm thương mại… và nơi đây thành mốc số 0 của các tuyến đường tỏa đi từ Hà Nội. Bến tàu điện trung tâm vì thế cũng được thiết lập ở phía Bắc của hồ, cạnh quảng trường Cocotier (Cây dừa, nay là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục), phục vụ trực tiếp cho khu phố buôn bán đông đúc nhất bên cạnh.
Không hồ nghi gì khi đặt ở vị trí trung tâm như vậy, ngay giữa những di tích quan trọng nhất Hà Nội là đền Ngọc Sơn hay các phố phường lâu đời, điểm hội tụ các chuyến tàu cũng đồng nghĩa một nơi dẫn đến các điểm hẹn văn hóa. Không riêng gì người Hà Nội một thời, người tỉnh xa cũng nghĩ, ra Bờ Hồ chơi mới là đến Hà Nội. Các chuyến tàu điện đã góp phần biến Bờ Hồ thành điểm tụ hội náo nhiệt nhất chốn thị thành. Từ bến tàu điện, những sinh hoạt kiểu đặc trưng gắn với phương tiện giao thông này ra đời: xẩm tàu điện, bán thuốc dạo, rồi muôn hình vạn trạng nhảy tàu, trốn vé… Mỗi tuyến tàu điện có một đặc thù riêng.
Tuyến số 1 từ Bờ Hồ đi Bạch Mai, trùng với đoạn đường thiên lý cũ, bắt đầu chạy năm 1901. Đây là tuyến đi qua nhiều ngã tư và ngã ba nhất, do sự đô thị hóa diễn ra sớm hơn cả, nhất là khu phố kiểu Pháp ở phía Nam Bờ Hồ. Nó nối 3 cái chợ khá quan trọng: chợ Mơ, chợ Đuổi, chợ Hôm, sau này còn có chợ Giời. Tuyến này khi lên Bờ Hồ sẽ giúp những người buôn bán lên tới chợ Đồng Xuân, lên Bưởi hay Cầu Giấy. Thiết lập trước cả tuyến này chính là tuyến từ Bờ Hồ đi làng Giấy (Thụy Khuê), nơi đặt Sở Xe điện, nhưng cũng cùng khai thác năm 1901, sau đó kéo dài lên chợ Bưởi. Những tuyến tàu điện đã nối các ngôi chợ vùng ven với nội đô, khiến cho đời sống Kẻ Chợ đậm nét thương mại, có sự phồn thịnh nhờ lưu thông vật lực lẫn tài lực.
Em ơi! Hà Nội - phố
Ta còn em tiếng hàng ngày.
Reo vang đường phố.
Lanh canh! Lanh canh!
Tia hồ quang chớp xanh.
Toa xe điện lên đèn.
Người soát vé áo bành tô sờn rách...
Lanh canh! Lanh canh!
- Ai xuống Bờ Hồ!
Ai đi Mơ! Ai lên Bưởi!
(Hà Nội phố - Phan Vũ)
Những làng nghề thủ công như làm giấy, dệt lĩnh vùng Bưởi hay nấu rượu, hàng quà vùng Kẻ Mơ đã theo tiếng leng keng mà làm giàu cho đời sống vật chất Kẻ Chợ. Những câu thơ gợi ra lộ trình đoàn tàu chỉ dài 3 toa đã đi qua lâu mà trong hoài niệm vẫn còn vang đường phố.
Tuyến số 3 từ Bờ Hồ đi Thái Hà Ấp, khánh thành cùng năm 1901 và kéo dài vào Hà Đông vào năm 1915, là tuyến dài nhất, hơn 10 cây số. Tỉnh Hà Đông từng có tên tỉnh Cầu Đơ do lỵ sở đặt ở làng Cầu Đơ, dân gian quen gọi là tỉnh Đơ, chỉ tồn tại thời gian rất ngắn cho đến năm 1904, được đổi làm Hà Đông. Nhưng thói quen gọi là tỉnh Đơ vẫn còn, như lời một người soát vé tàu điện [“sơ-vơ”] đã kể về hội chợ phiên ở Bờ Hồ năm 1939:
“Bác sơ-vơ tàu điện khoe với tôi:
- Hôm nay thể nào cũng lại thu được một nghìn bạc vé. Y như mấy hôm Tết. Dân tỉnh Đơ ra nhiều lắm.
Dân tỉnh Đơ cũng như dân của những tỉnh hạng nhì khác, sẽ có ngày đào ngũ hết. Họ sẽ bội bạc với nơi chôn rau, vì ở đấy không vui như ở đây. Ánh sáng thành phố Hà Nội có sức hấp dẫn mạnh lạ. Hà Nội là kinh đô của tự do, của nhố nhăng, của son trẻ, của bừa bãi” (Ng. Nhất Lang, “Chợ phiên Ánh Sáng”, Thời vụ 7/3/1939)
Tàu điện hơn cả một phương tiện giao thông, nó đã trở thành một niềm vui đường phố. Các tuyến còn lại chinh phục nốt những cửa ô quan trọng như tuyến số 4 đi Cầu Giấy khánh thành năm 1906, đi qua cửa ô Thanh Bảo (nay ở khoảng phố Thanh Bảo, cạnh bến xe buýt Kim Mã), ra tới điểm cuối là cửa đền Voi Phục, kết nối những làng mạc trù phú ven đường Láng dọc sông Tô Lịch. Tuyến cuối cùng từ Ô Yên Phụ đi xuyên qua phố cổ, không qua Bờ Hồ, mà rẽ ra Cửa Nam rồi đi theo đường cái quan, song song đường xe lửa xuống Ô Đồng Lầm, khánh thành năm 1929 và sau đó kéo dài đến Vọng năm 1943, nối các cơ sở công quan trọng của đô thị như ga Hàng Cỏ, Bệnh viện Robin (Bạch Mai), Sở Vô tuyến điện, rồi sau này là các trường đại học Bách khoa, Xây dựng, Kinh tế Quốc dân hay công viên Thống Nhất, điểm đến mới của người dân vào những ngày lễ hội từ năm 1958, giống như Bờ Hồ nửa thế kỷ trước đó.
Bao nhiêu địa danh đã hiện diện trên lộ trình các tuyến tàu điện, xâu chuỗi thành một mạng lưới chỉ dẫn nơi chốn cho người từ xa đến và cả những thị dân Hà Nội có công việc đi lại với một mức tiền vé phù hợp. Những chuyến tàu không bao giờ đi nhanh, tốc độ có lẽ chỉ chừng 20 km/h, ngang với một chiếc xe đạp, nhưng chúng hợp với nhịp sống thong thả của quá khứ. Những thập niên cuối của thân phận tàu điện chứng kiến sự rệu rã, xuống cấp của những toa tàu ì ạch giữa phố phường, những đường dây cấp điện thiếu điện hay những đường ray lì mòn đến nhẵn bóng, khiến bánh xe đạp phải né tránh mỗi khi trời mưa nếu không muốn bị trượt. Tàu điện bị dỡ bỏ không mấy người tiếc nuối, nhưng ít ai hình dung đến lúc chúng sẽ được nhớ thương.
Giờ ngoái lại mới thấy, những chuyến tàu điện xâu chuỗi không gian của Hà Nội, như một cuốn cẩm nang chỉ dẫn về quá khứ mà đến giờ vẫn chưa bạc màu. Câu hát quen thuộc vang lên trong tâm trí biết bao người, như dát một ánh bạc lên trang cẩm nang đã chỉ còn là hư ảnh: “Nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya, hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy” (Nhớ về Hà Nội - Hoàng Hiệp). Tiếng leng keng reo vui ấy, mặc cho đã biến mất, vẫn như điểm một nhịp tim của người thành phố.