|
| Để giữ vững mục tiêu CPI cả năm trong khoảng 4 - 4,5%, dòng chảy tín dụng cần tập trung vào xuất khẩu, sản xuất - lĩnh vực thiết yếu cho tăng trưởng GDP. Ảnh: Lê Tiên |
Nhân tố bất định và kịch bản CPI cuối năm
Chia sẻ góc nhìn về CPI tại cuộc tọa đàm do Học viện Tài chính tổ chức ngày 9/7/2025, PGS.TS. Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế nhận định, CPI nửa đầu năm được kiểm soát, song 6 tháng cuối năm dự báo sẽ đối mặt với nhiều áp lực mới. Trong các yếu tố bên ngoài, giá dầu thô là nhân tố khó lường và nếu vượt mốc 100 USD/thùng, CPI có thể tăng thêm 0,2 - 0,3 điểm % mỗi tháng. Tỷ giá và lãi suất quốc tế tiếp tục gây áp lực khiến đồng USD mạnh hơn và chính sách lãi suất cao kéo dài từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cũng có thể làm tăng nhập khẩu lạm phát.
Căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung và chính sách thuế đối ứng của nước Mỹ với các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang dần được định hình sẽ tác động tới chuỗi cung ứng và giá hàng hóa nhập khẩu. Đây là một nhân tố mới, khó lường và nền kinh tế cần chuẩn bị kịch bản phù hợp để chủ động thích ứng.
Về yếu tố bên trong, ông Ngô Trí Long cho rằng, giá các dịch vụ công như y tế, giáo dục, nước sạch... nếu tập trung điều chỉnh vào cuối năm có thể gây cộng hưởng tăng CPI khi tâm lý thị trường nhạy cảm với truyền thông giá cả. Truyền thông chính sách nếu thiếu nhất quán có thể làm tăng kỳ vọng lạm phát phi lý.
Đánh giá về CPI 6 tháng đầu năm, TS. Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính nhận định, chính sách gia hạn thuế, phí và tiền thuê đất đang hoạt động như “tín dụng tài khóa 0%” - hỗ trợ thanh khoản cho doanh nghiệp mà không gây áp lực tăng cung tiền, qua đó tránh tác động tiêu cực đến CPI. Hàng loạt chính sách như giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% đối với một số hàng hóa - dịch vụ, giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu, giảm 50% lệ phí trước bạ với ô tô trong nước, ưu đãi với ô tô điện..., được thực hiện từ đầu năm đến nay có tổng số tiền đã giảm, gia hạn ước tính đến hết tháng 6/2025 khoảng 106,7 nghìn tỷ đồng. Các biện pháp tài khóa góp phần kích thích tổng cầu, giảm chi phí sản xuất - kinh doanh, giúp nền kinh tế đạt các chỉ tiêu vĩ mô như định hướng.
Dự báo CPI cuối năm 2025 được Tổ điều hành giá, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chia thành 3 kịch bản. Trong kịch bản cơ sở, CPI bình quân năm 2025 duy trì quanh 4 - 4,5%, phù hợp với mục tiêu Quốc hội đề ra, lạm phát cơ bản giữ dưới 4%. Với kịch bản bất lợi (nếu giá dầu tăng sốc và tỷ giá biến động mạnh), CPI cả năm có thể vượt 4,8 - 5,2%. Ở kịch bản tích cực, nếu giá nguyên liệu quốc tế hạ nhiệt, tỷ giá ổn định và giải pháp kiểm soát giá dịch vụ công hiệu quả, CPI có thể duy trì 3,8 - 4%.
Kiểm soát lạm phát trong bối cảnh bất định
Quỹ Tiền tệ quốc tế mới đây đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2025 xuống mức 2,8%; tăng trưởng thương mại chỉ ở mức 1,7%, bằng một nửa so với mức tăng của năm 2024, nhưng nâng dự báo lạm phát lên 4,3%. Dự báo này phản ánh thách thức mà nhiều nền kinh tế phải đối mặt, đó là triển vọng tăng trưởng ảm đạm, tiêu dùng giảm và lạm phát tăng cao.
GS.TS. Nguyễn Trọng Cơ, Học viện Tài chính cho rằng, thế giới đang bước vào nửa cuối năm 2025 với nhiều biến động khi Hoa Kỳ - nền kinh tế lớn nhất - sử dụng thuế quan như một công cụ đàm phán thương mại. Sự thay đổi trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ có thể tạo ra những làn sóng ảnh hưởng đến nhiều nền kinh tế.
Tại Việt Nam, theo TS. Ngô Trí Long, thành công bước đầu trong kiểm soát lạm phát 6 tháng đầu năm 2025 là kết quả của sự phối hợp hiệu quả giữa các chính sách tiền tệ, tài khóa, thương mại và quản lý giá cả. Tuy nhiên, con đường phía trước còn tiềm ẩn nhiều bất định, nên để giữ vững mục tiêu CPI cả năm trong ngưỡng 4 - 4,5% đòi hỏi sự điều hành nhất quán, linh hoạt, đồng thời tăng cường năng lực dự báo và tính chủ động trong ứng phó chính sách.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục duy trì mức lãi suất cơ bản ổn định, tín dụng tăng có trọng tâm và nên xoay quanh mức mục tiêu 16%, dòng chảy tín dụng cần tập trung vào xuất khẩu, sản xuất - lĩnh vực thiết yếu cho tăng trưởng GDP, tránh tín dụng tràn lan gây sốt giá.
Chính sách tài khóa cần hỗ trợ có kiểm soát, nhất là không nên điều chỉnh thuế, phí lớn để hạn chế áp lực chi phí đẩy lên người tiêu dùng cuối cùng. Dòng tiền đầu tư công (đã giải ngân 36% tính đến hết tháng 6/2025) cần hướng tới hạ tầng và năng lực nội tại, tăng nguồn cung trung hạn, không đột ngột tạo áp lực cầu ngắn hạn...
Kiểm soát lạm phát không chỉ là nhiệm vụ ngắn hạn mà còn là nền tảng đảm bảo ổn định vĩ mô và phục hồi bền vững cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu cuối năm 2025, GS.TS. Nguyễn Trọng Cơ nêu quan điểm cần duy trì chính sách tiền tệ thận trọng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp lý, tránh tình trạng bơm tiền quá mức có thể gây ra lạm phát. Ngân hàng Nhà nước cần linh hoạt sử dụng các công cụ thị trường (mua/bán ngoại tệ, lãi suất) để giữ ổn định tỷ giá, hạn chế đà mất giá của VND nhằm kiềm chế lạm phát chi phí đẩy từ hàng nhập khẩu.
Về chính sách tài khóa, trường hợp xuất khẩu khó khăn, Chính phủ có thể tăng cường các chương trình kích cầu nội địa, hỗ trợ người dân thông qua các gói an sinh xã hội để duy trì sức mua. Cùng với đó, cần tiếp tục giải ngân vốn đầu tư công vào hạ tầng, tạo việc làm và thúc đẩy các ngành liên quan, bù đắp cho sự sụt giảm của hoạt động xuất khẩu.
Đặc biệt, cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các chính sách miễn, giảm, giãn thuế, phí; đơn giản hóa thủ tục hành chính; hỗ trợ tín dụng ưu đãi để duy trì sản xuất và việc làm… GS.TS. Nguyễn Trọng Cơ cũng cho rằng, Nhà nước và doanh nghiệp cần mở rộng khai thác các thị trường xuất khẩu như châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ… thông qua việc tận dụng tối đa các FTA đã ký kết. Các doanh nghiệp nhất thiết cần tìm cách đầu tư, đẩy mạnh nội địa hóa, giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu để xây dựng sức cạnh tranh cho hàng Việt về dài hạn.
Bên cạnh các giải pháp chính sách, nhiều chuyên gia cho rằng, cần tăng cường công tác truyền thông, cung cấp thông tin minh bạch, rõ ràng cho người dân và doanh nghiệp để định hướng kỳ vọng, tránh tâm lý hoang mang, tránh hiện tượng đầu cơ, gây hệ lụy không đáng có trong nền kinh tế.