Vừa qua, Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Quyết định công bố 6 án lệ đầu tiên. 6 án lệ này đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua.
Từ năm 2013, Hiến pháp mới đã quy định Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Sau quá trình dài chuẩn bị, cùng với sự ban hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân, cuối cùng Việt Nam đã tiến tới áp dụng án lệ.
Theo đó, án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Trong 6 án lệ đầu tiên có 1 án lệ hình sự - tội giết người, 2 án lệ trong lĩnh vực đất đai, 2 án lệ về thừa kế, 1 án lệ về ly hôn - giải quyết tài sản. Như vậy, chưa có án lệ nào trong tranh chấp hợp đồng kinh tế được lựa chọn và công bố.
Những án lệ này sẽ được áp dụng trong xét xử kể từ ngày 1/6/2016.
Án lệ được lựa chọn phải chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể.
Đồng thời, án lệ đáp ứng yêu cầu chuẩn mực và có giá trị như một hướng dấn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.
Không áp dụng án lệ, phải giải thích
Hiện Việt Nam là một nước theo hệ thống luật thành văn. Do đó, văn bản quy phạm pháp luật vẫn có hiêu lực cao nhất. Án lệ, chỉ là nguồn bổ trợ cho hệ thống luật thành văn và không có giá trị hiệu lực bắt buộc thi hành. Việc sử dụng án lệ chỉ coi là thứ yếu sau khi đã áp dụng những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Tuy vậy, theo quy định tại Điều 8, Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP thì khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, đảm bảo các vụ việc có tình tiết, sự kiện giống nhau thì kết quả giải quyết phải như nhau.
Nguyên tắc áp dụng án lệ cũng yêu cầu, nếu áp dụng án lệ thì bản án phải nêu tính chất, tình tiết vụ việc án lệ và vụ việc đang giải quyết, vấn đề pháp lý phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ
Nếu không áp dụng án lệ, phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án.
Trường hợp Luật pháp thay đổi hoặc do tình hình thực tế thay đổi khiến án lệ không còn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm có quyền không áp dụng án lệ và phải kiến nghị với Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét hủy bỏ.
Việc áp dụng án lệ được cho là sẽ giúp việc xét xử công khai, minh bạch, hạn chế tình trạng áp dụng luật mỗi nơi một kiểu. Đặc biệt, các án lệ có thể giúp khắc phục những kẽ hở mà luật thành văn chưa quy định, tạo ra tiền lệ để xét xử những vụ án tương tự sau này.
Từ đó, đảm bảo sự bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp tiên lượng được kết quả của các vụ tranh chấp, tiết kiệm công sức của các thẩm phán, các đương sự, tạo ra sự công bằng trong xã hội.