|
| Trong quy hoạch hạ tầng đô thị, cần cập nhật thông số quy hoạch/thiết kế theo kịch bản mới, xem xét các kịch bản đột biến do biến đổi khí hậu. Ảnh: Nhật Tân |
Trao đổi với phóng viên Báo Đấu thầu, TS.KTS. Ngô Trung Hải, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam cho rằng, cần thay đổi tư duy và có chiến lược lâu dài trong quy hoạch, đồng thời đưa ra một số mô hình đô thị chủ động sống chung với mưa lũ, giảm thiểu thiệt hại.
Đợt mưa lũ ở nhiều nơi vừa qua là một hiện tượng thiên tai cực đoan, vượt kỷ lục lịch sử. Ngay cả khi dự báo chính xác thì hiện trạng hạ tầng sẵn có vẫn khó ứng phó. Nhiều ý kiến cho rằng, thiệt hại ở nhiều nơi không chỉ đến từ thiên tai mà còn có những yếu tố từ chính con người tạo ra, ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?
Thời gian vừa qua, nhiều đô thị, cả miền núi và miền xuôi bị ngập rất nặng nề, phần lớn là do thiên tai cực đoan, khi lượng mưa vượt xa mọi kịch bản lịch sử, dự báo.
Tại các đô thị, mức độ ngập (gây úng) thể hiện qua độ sâu của mực nước và phạm vi ảnh hưởng. Những khu vực trọng yếu, nơi tập trung đông người, khu sản xuất… bị ngập kéo dài đã tác động nghiêm trọng đến đời sống xã hội và kinh tế.
Riêng trong vấn đề quy hoạch đô thị, chúng ta đã vận dụng khái niệm tần suất để thiết kế hệ thống thoát nước. Đô thị đặc biệt, đô thị loại 1 thường tính trên kịch bản an toàn với tần suất khoảng 100 năm (tức là, mức cực đại có thể xảy ra trung bình 1 lần/100 năm). Các đô thị loại thấp hơn có thể tính trên 50 năm, 10 năm… Việc tính toán phải dựa vào số liệu đo thực tế, tức là lấy năm cao nhất, lượng mưa lớn nhất trong giai đoạn đó để đặt làm chuẩn thiết kế.
Thực tế, không có thành phố nào trên thế giới mà vừa mưa xong đã khô ráo ngay. Điều quan trọng là khả năng tiêu thoát nước của đô thị trong thời gian hợp lý như thế nào. Ví dụ, nếu một khu vực chỉ ngập 10 - 15 phút sau mưa lớn thì vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng nếu nước đọng hàng tiếng đồng hồ, thậm chí nửa ngày, hoặc nhiều hơn thì đó là dấu hiệu năng lực thoát nước yếu, hoặc là quy hoạch phát triển đô thị chưa theo kịp biến đổi khí hậu.
Đơn cử ở Hà Nội, kịch bản thiết kế từng lấy mốc lượng mưa khoảng 310 mm trong 48 giờ (với cường độ cao trong 4 - 5 giờ) để tính toán khả năng tiêu thoát của hệ thống cống, hồ điều tiết, trạm bơm và dòng chảy. Nhưng trận mưa ngày 30/9 vừa rồi đo được xấp xỉ 500 mm, cao hơn rất nhiều mức cực đại lịch sử. Khi vượt “đỉnh” lịch sử, hệ thống cống thoát nước được thiết kế trên cơ sở số liệu cũ không đủ sức ứng phó.
Hậu quả nặng nề của những trận mưa, lũ chỉ ra, TP. Hà Nội nói riêng và nhiều đô thị nói chung chưa chuẩn bị tâm thế để ứng phó. Đây là một lỗ hổng lớn của rất nhiều đô thị trong cả nước, gồm cả đô thị miền núi và ven biển.
Kinh nghiệm ứng phó của các quốc gia trên thế giới với hiện tượng thời tiết cực đoan, mưa lũ này như thế nào, thưa ông?
Trên thực tế, không có quốc gia nào trên thế giới có thể chống nổi thiên tai, nhưng điều có thể làm là giảm được bao nhiêu phần trăm tác động của thiên tai và tần suất nó xảy ra. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ngập lụt chỉ trở thành thảm họa khi yếu tố tự nhiên gặp đúng điểm yếu của hệ thống quản trị. Không ít quốc gia (như Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…) đều từng đối mặt với áp lực ngập nặng, nhưng bằng kỷ luật quy hoạch, dữ liệu khoa học và tư duy tôn trọng tự nhiên, họ đã giảm thiểu rủi ro.
Vấn đề đặt ra là liệu Việt Nam có thể đầu tư những công trình đủ lớn và bền vững để bảo vệ các đô thị, thành phố, hay vẫn chỉ dừng lại ở những dự án nhỏ, cục bộ. Điều này cần tầm nhìn dài hạn và quyết tâm chính trị đủ mạnh.
Quốc hội đang sửa đổi Luật Quy hoạch, cùng với đó điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, sửa đổi, bổ sung Quy hoạch đô thị và nông thôn. Theo ông, tư duy trong công tác quy hoạch, xây dựng đô thị cần có những thay đổi căn cơ nào để thích ứng?
Để ứng phó với thiên tai, điều quan trọng nhất là phải thay đổi tư duy. Các đô thị, nơi tập trung đông dân cư nói chung không thể chạy theo việc chống ngập qua từng trận mưa, mà phải chủ động sống chung, giảm thiểu thiệt hại và có chiến lược lâu dài trong quy hoạch, lựa chọn triết lý để tồn tại và thích nghi. Không chủ thể nào đủ sức mạnh để ngăn được mưa. Nhưng nếu biết chấp nhận và thiết kế đô thị thích ứng - như mô hình “đô thị bọt biển” (Sponge City) mà nhiều nước đang theo đuổi - thì những trận mưa cực đoan sẽ không còn là thảm họa.
Ví dụ, tại Tokyo (Nhật Bản), chính quyền đã xây dựng hệ thống đường hầm khổng lồ dài gần 10 km dưới lòng đất, có thể chứa hàng triệu mét khối nước mưa, giúp giảm tải cho hệ thống cống thoát nước đô thị khi mưa lớn. Nhiều đô thị của Việt Nam có thể học hỏi mô hình đó, hoặc đơn giản hơn là tạo ra các vùng tạm chứa nước - hồ lớn, vùng bán ngập tạm thời - để nước mưa có chỗ dồn về rồi rút dần. Trong quy hoạch hạ tầng đô thị, cần cập nhật thông số quy hoạch/thiết kế theo kịch bản mới, không chỉ tần suất qua 100 năm mà xem xét các kịch bản đột biến do bối cảnh biến đổi khí hậu trên toàn cầu và dài hơn. Các giải pháp ứng cứu khẩn cấp bằng các trạm bơm di động cũng cần được tính đến.
Bên cạnh đó, các đô thị cần xây dựng bản đồ cảnh báo rủi ro bằng việc áp dụng khoa học - kỹ thuật, khoanh vùng nguy hiểm. Vấn đề này chúng ta hoàn toàn có thể làm được để cảnh báo sớm nhất cho người dân về mức độ ngập lụt thông qua hệ thống truyền thông, mạng xã hội và rất cần thiết qua tin nhắn điện thoại. Từ đó, người dân có phương án ứng phó như chuẩn bị trước lương thực, di dời đến vùng an toàn. Lực lượng chức năng cần tổ chức huấn luyện lực lượng tại chỗ về phòng, chống thiên tai; trang bị xuồng, áo phao, vật tư cứu hộ ở cấp phường, xã. Việc này cần chủ động phương án, tập huấn và chuẩn bị phương tiện cần thiết tại chỗ ứng phó kịp thời.
Tôi cùng các chuyên gia của Bỉ và cộng sự đã nghiên cứu, phát triển một khái niệm có tên “Water Urbanism - mô hình đô thị nước". Khi chấp nhận triết lý “mô hình đô thị nước”, chúng ta sẽ thiết kế không gian, hạ tầng và xây dựng cuộc sống đô thị theo hướng linh hoạt chuyển động với nước.
Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về “mô hình đô thị nước”?
Thay vì chỉ tập trung vào các giải pháp đầu tư hạ tầng, hồ điều hòa hay trạm bơm, mô hình này hướng đến quy hoạch tích hợp, đa năng kết hợp giữa kỹ thuật và tự nhiên. Hệ thống hạ tầng phải “mềm dẻo” hơn, có khả năng hấp thu nước, chứa nước, thoát nước. Ví dụ, Hà Lan, Đan Mạch, Singapore… đã quy hoạch các không gian linh hoạt: công viên, quảng trường, sân vận động, bãi đỗ xe có thể biến thành hồ chứa tạm khi mưa lớn. Những nơi này vừa là không gian công cộng, vừa là “không gian mở” của đô thị khi thời tiết cực đoan xảy ra.
Trên thế giới còn phát triển thêm mô hình “đô thị bọt biển” hoặc “đô thị xốp". Hiểu một cách đơn giản, đây là đô thị có khả năng thấm, giữ và tiêu nước tự nhiên, được thiết kế với nhiều “lỗ hở”. Công viên, quảng trường, sân vận động, bãi cỏ… bình thường là không gian sinh hoạt công cộng, nhưng khi mưa lớn, nước có thể thấm vào đất thông qua những chỗ không bị bê tông bịt kín, giảm được ít nhất 15 - 20% áp lực nước đổ vào hệ thống cống. Từ đó, thời gian thoát nước nhanh hơn. Ngược lại, nếu toàn bộ đô thị phủ kín bằng vật liệu không thấm, bê tông, nước không có đường quay lại lòng đất dẫn đến ùn ứ, dễ gây sụt lún đô thị.