|
| Tập trung nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho các dự án hạ tầng điện, trung tâm dữ liệu quốc gia, hành lang logistics, cảng biển chiến lược, đường cao tốc… sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa để dẫn dắt đầu tư tư nhân. Ảnh: Lê Tiên |
Sức chống chịu tốt
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhận định, tình hình thế giới tiếp tục biến động nhanh, phức tạp, nhiều thách thức. Trong bối cảnh khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, 11 tháng tốt hơn cùng kỳ năm 2024 trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng chỉ rõ còn những hạn chế và thách thức, nổi bật là tác động từ bên ngoài khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở rất lớn, sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực khó khăn; bão lũ, mưa lớn kéo dài ảnh hưởng tới đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân…
Đánh giá về kinh tế 11 tháng qua, TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, dù chịu tác động mạnh từ bối cảnh toàn cầu có nhiều biến động, tình trạng mưa lũ kéo dài ở các tỉnh, nền kinh tế vẫn phục hồi rõ nét, thể hiện sức chống chịu tốt trước những cú sốc lớn, tỷ giá và lãi suất tương đối ổn định, tạo đà cho sản xuất, xuất khẩu và đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Bích Lâm, bên cạnh những điểm sáng, nền kinh tế vẫn còn nhiều điểm hạn chế, đáng chú ý là sức mua giảm tốc. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng chỉ tăng 6,8%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với 10 tháng năm 2025, cho thấy sức mua của thị trường trong nước còn yếu dưới tác động kép của thiên tai lịch sử miền Trung và hạn chế tài chính của các hộ gia đình.
Sự giảm tốc của tiêu dùng trong nước phản ánh thu nhập của hộ gia đình chưa phục hồi hoàn toàn, khiến người dân ưu tiên chi tiêu các mặt hàng thiết yếu, làm chậm đà tăng tiêu dùng dịch vụ, du lịch và hàng hóa cao cấp. Bên cạnh đó, thiên tai còn gây gián đoạn chuỗi cung ứng, làm tăng chi phí hàng hóa, khiến sức mua tăng chậm hơn mức bình thường.
Do đó, theo TS. Nguyễn Bích Lâm, thị trường trong nước cần được nâng đỡ bằng các giải pháp tăng thu nhập thực, mở rộng an sinh xã hội, giảm chi phí sinh hoạt và cải thiện niềm tin tiêu dùng, thay vì chỉ dựa vào các chương trình khuyến mãi hoặc giảm thuế tạm thời. Nếu không kịp thời điều chỉnh, yếu tố này có thể hạn chế hiệu quả của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư công, đồng thời ảnh hưởng đến đà tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu 11 tháng 2025 tiếp tục tăng mạnh, đạt 430,1 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trở thành động lực quan trọng kéo nền kinh tế vượt khó. Tuy nhiên, ông Lâm cho rằng, điểm đáng ngại là hoạt động xuất, nhập khẩu vẫn phụ thuộc vào một số ít thị trường quốc tế và khu vực FDI (khu vực FDI đạt 327,7 tỷ USD, khu vực trong nước chỉ đạt 102,4 tỷ USD) cảnh báo rủi ro nếu chuỗi cung ứng toàn cầu biến động mạnh. Nếu không sớm nâng cấp năng lực cho khu vực trong nước, nền kinh tế sẽ khó tránh khỏi "bẫy gia công" và phụ thuộc quá mức vào nguồn cầu bên ngoài.
Ở khía cạnh khác, tín dụng tăng cao song chưa tạo bứt phá cho tăng trưởng kinh tế. Tín dụng toàn nền kinh tế đến cuối tháng 11 vượt mục tiêu tăng 16% so với cuối năm 2024; trong đó 69,83% tổng tín dụng chảy vào khu vực dịch vụ, 24% vào khu vực công nghiệp và xây dựng; 6,17% vào khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Cơ cấu tín dụng cho thấy sự lệch pha giữa các ngành và động lực tăng trưởng; khu vực sản xuất vật chất - nền tảng nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu chưa được tiếp sức đúng mức.
“Nếu không điều chỉnh cơ chế phân bổ, tín dụng tăng cao có thể tạo ra bong bóng tài sản hoặc lãng phí nguồn lực, thay vì thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Mức tín dụng tăng cao vượt quá khả năng hấp thụ thực tế của nền kinh tế đưa đến nguy cơ lệch pha giữa tốc độ tăng vốn và hiệu quả tăng trưởng”, ông Lâm lưu ý.
Đổi mới mô hình phát triển để tăng trưởng bứt phá
PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.HCM cho rằng, kết quả tích cực của năm 2025 mở ra triển vọng tăng trưởng khả quan cho năm 2026 và giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, tăng trưởng không tự xuất hiện mà cần những “điểm mở chính sách” đủ mạnh để chuyển hóa cơ hội thành kết quả thực tế.
Trước hết, Việt Nam cần tiếp tục thực thi chính sách ổn định vĩ mô nhưng không bảo thủ theo hướng vừa kiểm soát lạm phát để tránh rủi ro giá cả, vừa phải duy trì mặt bằng thanh khoản đủ thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư mở rộng. Khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục, dòng vốn dễ chảy vào các kênh tài sản, dẫn đến lãi suất tăng trở lại dù Ngân hàng Nhà nước vẫn bơm thanh khoản. Nếu chính sách tiền tệ chỉ siết lại, tăng trưởng sẽ mất đà; nếu quá nới lỏng, lạm phát sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát. Thay vào đó, cần một “điểm cân bằng động” - nơi kỳ vọng lãi suất được ổn định và thị trường tiền tệ vận hành thông suốt.
Một giải pháp mang tính “mở khóa” là phát triển thị trường tài chính sâu rộng hơn. Tăng trưởng cao đòi hỏi vốn dài hạn, nhưng khu vực ngân hàng không thể gánh hết. Do đó, cần sớm hoàn thiện cơ chế vận hành trung tâm tài chính quốc tế, thị trường trái phiếu xanh, quỹ đầu tư mạo hiểm và các công cụ tài chính mới như tài sản số, tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, mô hình thử nghiệm công nghệ tài chính. Khi các kênh huy động vốn phi ngân hàng phát triển, doanh nghiệp sẽ có nguồn lực để mở rộng đầu tư mà không gây áp lực lên hệ thống tín dụng.
Giải pháp then chốt khác là tập trung vốn đầu tư công vào các dự án mang tính nền tảng, những dự án có khả năng “kéo” đầu tư tư nhân. Đó không phải là các dự án nhỏ lẻ, mà là hạ tầng điện - truyền tải, trung tâm dữ liệu quốc gia, hành lang logistics, cảng biển chiến lược, đường cao tốc, hệ thống kho LNG và hạ tầng đô thị tương thích với kinh tế số. Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore đều đã sử dụng chính sách “đầu tư công dẫn dắt” theo cách này để Nhà nước đi trước, doanh nghiệp theo sau. Việt Nam hiện có dư địa tài khóa vừa phải nên nếu các dự án đầu tư công được lựa chọn đúng trọng tâm, hiệu ứng lan tỏa sẽ rất lớn.
Đồng thời, cần tập trung vào những giải pháp có khả năng nâng TFP (năng suất tổng hợp), mở rộng không gian cho đầu tư tư nhân và giảm các ma sát thể chế trong vận hành nền kinh tế. Để kích thích tăng trưởng năm 2026, cần triển khai thực chất cơ chế một cửa, một cửa liên thông, phân quyền mạnh cho địa phương và đặc biệt là phải xử lý triệt để các điểm nghẽn về đất đai, đầu tư, xây dựng, năng lượng. Tăng trưởng không thể bứt phá nếu một dự án FDI bán dẫn phải chờ phê duyệt hạ tầng trong nhiều tháng.
“Từ góc độ chính sách để kích thích tăng trưởng 2026, câu chuyện không phải là “bơm thêm vốn” mà là giải phóng năng suất, cải cách thể chế, đầu tư hạ tầng trọng yếu, bảo đảm năng lượng, phát triển thị trường tài chính và nâng cấp nguồn nhân lực. Nếu Việt Nam đồng thời triển khai được những cấu phần này, mức tăng trưởng cao không còn là mục tiêu xa vời mà trở thành kết quả tự nhiên của một mô hình phát triển mới - nơi đổi mới sáng tạo, năng lượng xanh và công nghiệp công nghệ cao đóng vai trò trung tâm”, ông Huân nhấn mạnh.