80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam: Hội tụ và tỏa sáng sức mạnh mềm dân tộc

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vào tháng 2 năm 1943. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, xác định chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ Đề cương về văn hóa, lớp lớp các thế hệ văn nghệ sỹ đã tiếp bước con đường cách mạng, vừa cầm bút, vừa cầm súng, tham gia công cuộc thống nhất đất nước
Từ Đề cương về văn hóa, lớp lớp các thế hệ văn nghệ sỹ đã tiếp bước con đường cách mạng, vừa cầm bút, vừa cầm súng, tham gia công cuộc thống nhất đất nước

Nhìn lại 80 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, những giá trị cơ bản và cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn luôn luôn là những định hướng có ý nghĩa chiến lược, được kế thừa, phát huy và phát triển trong hoạt động thực tiễn, là cội nguồn và động lực để khơi dậy các giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

PGS. TS Phạm Duy Đức

PGS. TS Phạm Duy Đức

80 năm vẫn vẹn nguyên giá trị

Trong bối cảnh đất nước đang bị đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật và nhà nước phong kiến lệ thuộc, đời sống văn hóa xã hội rơi vào khủng hoảng, bế tắc, nhiễu loạn, phức tạp với nhiều trường phái, triết thuyết khác nhau, Đảng ta đã chọn phạm vi vấn đề văn hóa để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, gắn liền với ba lĩnh vực: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đây là ba lĩnh vực cơ bản và then chốt nhất của văn hóa.

Lĩnh vực tư tưởng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh chính trị, xác định lý tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng ta đã và đang tiến hành tuyên truyền, phổ biến, giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Tư tưởng có tác động sâu sắc và toàn diện đối với các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí… Sự thống nhất về tư tưởng tạo nên sự thống nhất về tổ chức, thống nhất về ý chí và hành động, khơi dậy khát vọng giải phóng dân tộc của các tầng lớp nhân dân. Việc lựa chọn lĩnh vực tư tưởng để lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn xây dựng văn hóa là Đảng ta đã xác định đúng và trúng vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra trong bối cảnh lịch sử - xã hội lúc đó.

Lĩnh vực thứ hai mà Đảng ta xác định là học thuật (hay rộng hơn là khoa học). Trong bối cảnh đất nước bị chìm đắm trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm với các trào lưu, triết thuyết gây hoang mang, dao động xã hội, nhất là đối với tầng lớp trí thức đương thời, việc đấu tranh để tuyên truyền, phổ biến, khẳng định vai trò của triết học Mác-xít, khẳng định giá trị khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đấu tranh, phê phán, phản bác lại các trào lưu tư tưởng, học thuật phản khoa học phê phán chủ nghĩa duy tâm và tâm lý mê tín, dị đoan trong xã hội, đưa các giá trị khoa học, các thành tựu khoa học chân chính vào trong đời sống xã hội để thức tỉnh nhân dân là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp thiết.

Lĩnh vực thứ ba mà Đảng ta lựa chọn là nghệ thuật. Văn học, nghệ thuật đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tuyên truyền chính trị, quảng bá đường lối, chính sách của Đảng tới các tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy truyền thống đoàn kết, yêu nước, chống xâm lược góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.

Trong hoàn cảnh lịch sử của những năm 40 thế kỷ XX, đời sống văn học, nghệ thuật dân tộc bị bế tắc, không có một đường lối, chủ trương và phương hướng hoạt động trong bối cảnh hỗn loạn và tranh chấp ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm. Việc Đảng ta lựa chọn lĩnh vực văn học, nghệ thuật để lãnh đạo, chỉ đạo đã tạo điều kiện để văn học, nghệ thuật và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ phát huy vai trò tích cực trong việc định hướng, tuyên truyền, vận động cách mạng, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Như vậy, sự lựa chọn ba lĩnh vực cơ bản của văn hóa là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật để lãnh đạo và chỉ đạo là sự lựa chọn rất đúng và rất trúng những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết được đặt ra.

Các lĩnh vực này không phải là những thành tố biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy nhau để nâng cao trình độ văn hóa chung của xã hội, gắn kết văn hóa với mục tiêu chính trị, nhằm khơi dậy và phát huy vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại giải phóng dân tộc và đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.

Xuất phát từ lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, Đề cương đã khẳng định nền tảng kinh tế của một chế độ xã hội quy định sự phát triển văn hóa của chế độ xã hội đó. Từ đó, Đề cương nêu lên ba quan điểm: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động; Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.

Ba mặt trận này có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cách mạng văn hóa không thể tách rời cách mạng chính trị và kinh tế. Giá trị lý luận về việc xử lý hài hòa và đúng mức về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị luôn luôn là những bài học kinh nghiệm vô giá để Đảng ta vận dụng trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm vừa qua.

Giá trị lý luận nổi bật của Đề cương là Đảng ta đã nêu lên ba nguyên tắc của vận động xây dựng văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này. Đó là Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Theo đồng chí Trường Chinh: “Ba nguyên tắc trên đây là ba cái khâu của một sợi dây chuyền. Nó có tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động văn hóa mới Việt Nam mà bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà đồng thời chống lại những nguyên tắc kia. Không nhận thức rõ điều đó thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ xây dựng văn hóa mới cho dân tộc, mà có khi mắc bẫy văn hóa của đế quốc hoặc bị chúng lợi dụng”1.

Trong bài phát biểu tại Lễ kỉ niệm 40 năm Đề cương về văn hóa, đồng chí Trường Chinh đã giải thích cụ thể về lí do và mục đích của việc đề ra các nguyên tắc này. Vì sao phải Dân tộc hóa? Theo đồng chí Trường Chinh, gần 100 năm thống trị, thực dân Pháp đã du nhập vào Việt Nam những nhân tố tiêu cực, phản động của văn hóa tư sản và đế quốc. Chúng đề cao sự giàu mạnh của thực dân, ca tụng chính sách thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, gieo rắc vào đầu óc người Việt Nam tinh thần nô lệ, lệ thuộc, sùng bái văn hóa Pháp, chạy theo cuộc sống hưởng lạc, đồi trụy, xa rời và miệt thị truyền thống văn hóa dân tộc, nảy sinh tâm lý tự ti dân tộc, giảm sút tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mục đích của nguyên tắc “Dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có đầy lòng tự hào, dũng cảm đứng lên tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam”2.

Về vấn đề Đại chúng hóa, đồng chí Trường Chinh nêu rõ: Hoàn cảnh nước ta lúc đó là một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, hầu hết nhân dân mù chữ. Văn học, âm nhạc, hội họa và nhiều thể loại văn hóa khác không phục vụ nhân dân lao động, mà chủ yếu phục vụ cho giai cấp thống trị. Đa số nhân dân lao động bị gạt ra khỏi đời sống văn hóa. Vì vậy, nền văn hóa mới phải là nền văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, phải làm cho mọi người dân biết đọc, biết viết, hiểu biết về văn hóa dân tộc của mình... Đây chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý về tính nhân dân của nền văn hóa cách mạng mà V. I. Lênin đã nêu ra. V. I. Lênin đã khẳng định văn hóa là thành tựu sáng tạo của nhân dân. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng văn hóa là nâng cao trình độ của nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi sự dốt nát, thất học, mê tín dị đoan, tạo điều kiện để quảng đại quần chúng tiếp nhận, thụ hưởng và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới đáp ứng với nhu cầu phát triển của thời đại.

Tư tưởng nhân văn, khoa học và cách mạng của Đề cương đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn của lịch sử, tạo động lực để thức tỉnh đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ trước nguy cơ tồn vong của dân tộc và phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, khắc phục sự ngưng trệ, rối loạn và mất định hướng tư tưởng.

Về nguyên tắc khoa học, theo đồng chí Trường Chinh, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ lâu ngày dưới chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến, tư tưởng thực dân với chính sách ngu dân. Tính chất bảo thủ, lạc hậu in đậm trong nhiều phong tục, tập quán. Vì vậy, “khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kiềm hãm ấy, nhằm phát triển mọi mặt trên cơ sở khoa học. Nó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động. Nó gạt ra khỏi đầu óc mọi người các loại thành kiến, hủ bại, mê tín, dị đoan”3.

Văn hóa soi đường cho quốc dân đi

Đánh giá bản Đề cương về văn hóa, GS. Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng đã nhận xét rất xác đáng là: “Đó là đỉnh cao trí tuệ đương thời, là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh tinh thần to lớn mà đất nước đang cần”4.

Những năm 40 của thế kỷ XX, đất nước ta đang đắm chìm dưới sự áp bức bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng chế độ phong kiến suy tàn. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều diễn biến hết sức phức tạp… Trên lĩnh vực văn hóa, nhiều xu hướng tư tưởng đang chi phối đời sống tinh thần như học thuyết về Đại Đông Á của Nhật, nuôi dưỡng hy vọng hão huyền cho không ít trí thức rằng, đi theo Nhật nhờ “đồng chủng, đồng văn”, họ có thể giúp Việt Nam cải cách, thoát khỏi áp bức của thực dân Pháp.

Những tư tưởng triết học phương Tây được giới thiệu hỗn loạn lúc đó như R. Descarter, I. Kant, F. Nietzsche, H. Gesgson… càng gây nên tình trạng lạc đường cho nhiều trí thức, văn nghệ sỹ. Việc nhận diện con đường của nhiều trí thức văn nghệ sỹ lúc này gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét xác đáng rằng: “Đây là nguy cơ của cả một nền văn học”. Những sáng tác của các nhà văn lớn như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao đã bộc lộ không khí “ngột ngạt không chịu nổi” và cảm thấy “không thể mãi thế này”… Trong bối cảnh bế tắc, hỗn loạn ấy, Đề cương về văn hóa năm 1943 đã đem lại ánh sáng mới, giúp văn nghệ sỹ, nhân sỹ, trí thức và các nhà hoạt động văn hóa nhận ra đường đi cho sự nghiệp của mình, hướng về với dân tộc, với nhân dân, thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan để dấn thân vào mặt trận văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là lực lượng tiên phong đến với cách mạng và là lực lượng chủ chốt trong xây dựng nền văn hóa mới cho Việt Nam.

Giá trị lý luận nổi bật của Đề cương về văn hóa là Đảng ta đã nêu lên ba nguyên tắc của vận động xây dựng văn hóa Việt Nam. Đó là Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa; Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).

Từ đây, tư tưởng cứu quốc với khẩu hiệu: “Tổ quốc trên hết”, “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, các cộng đồng dân tộc, đảng phái, tôn giáo tập trung thực hiện một nhiệm vụ: giành độc lập dân tộc. Đề cương về văn hóa đã trở thành điểm hội tụ các văn nghệ sỹ, nhân sỹ, trí thức, các nhà hoạt động văn hóa, tập hợp lực lượng thành một mặt trận cùng với mặt trận chính trị và kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, tham gia vào cuộc đấu tranh kháng chiến trường kỳ.

Hàng loạt trí thức lớn, các nhà văn, nghệ sỹ tài năng, tâm huyết như Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Học Phi, Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Huy Cận, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Đôn, Dương Bích Liên, Văn Cao… đã đến với cách mạng và trở thành nòng cốt trong xây dựng và phát triển nền văn hóa, nghệ thuật cách mạng.

Các nhà văn, nghệ sỹ đã thực sự “lột xác”, “đổi đời”, “đổi thơ”, bước ra khỏi “thung lũng đau thương” để đến “cánh đồng vui” cách mạng. Các tác phẩm văn chương, hội họa, âm nhạc đã tuyên truyền, cổ vũ, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Bài ca “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi, Tiến quân ca của Văn Cao… vang lên, thúc đẩy hào khí Tổng khởi nghĩa. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta đã tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc (ngày 24/11/1946) nhằm thống nhất về tư tưởng và tổ chức, củng cố và phát triển mặt trận văn hóa để thực hiện sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”. Từ đây, những tư tưởng lý luận của Đề cương về văn hóa năm 1943, những nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng đã trở thành nền tảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng nền văn hóa, nghệ thuật cách mạng Việt Nam.

Cũng từ đây, lớp lớp các thế hệ văn nghệ sỹ đã tiếp bước con đường cách mạng, vừa cầm bút, vừa cầm súng, tham gia trên mọi mặt trận khốc liệt của cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều nhà văn, nghệ sỹ đã hy sinh trên chiến trường chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Sự hy sinh và cống hiến không ngừng của các thế hệ văn nghệ sỹ trong hai cuộc kháng chiến đã đưa sự nghiệp văn hóa, văn nghệ nước nhà “đứng vào vị trí tiên phong của nền văn hóa, nghệ thuật chống đế quốc và phong kiến trong thời đại ngày nay”5. Các binh chủng văn học, nghệ thuật cách mạng đã góp phần to lớn, khơi dậy hào khí anh hùng với “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ/mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), truyền ngọn lửa thiêng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chủ tịch đến mọi tầng lớp, góp sức tạo nên kỳ tích lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sỹ đã trở thành bất tử, đi sâu vào tâm thức nhân dân, nuôi dưỡng tâm hồn và tỏa sáng khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cho mọi người.

Kế thừa và phát triển những giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong thời kỳ Đổi mới, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa, đề cao vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng văn hóa, con người ngày càng toàn diện và sâu sắc. Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế ngày càng được nhận thức đầy đủ và cụ thể hơn. Văn hóa không chỉ có chức năng bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà giá trị của văn hóa được khẳng định ở tầm cao nhất: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Văn hóa còn là động lực, nguồn lực để làm giàu, phát triển kinh tế - xã hội, trở thành “sức mạnh mềm” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nguyên tắc cơ bản mà Đề cương về văn hóa nêu ra từ 80 năm trước đây tiếp tục được Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình khẳng định đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ Khóa XIII, mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng trong những thập niên tới, phấn đấu: “Đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao”6. Để thực hiện những mục tiêu to lớn này, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh một trong những trọng tâm cần thực hiện thật tốt là: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

80 năm đi qua, Đề cương về văn hóa vẫn vẹn nguyên giá trị, hội tụ và tỏa sáng trí tuệ Việt Nam, phát huy vai trò to lớn, không thể thay thế của sức mạnh mềm Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1 Trường Chinh, Về văn hóa và nghệ thuật. T 1, NXB Văn học, HN, 1995, tr.30

2 Trường Chinh, Về văn hóa và nghệ thuật. Tập 2, NXB Văn học HN, 1986, tr.360

3 Trường Chinh. Về văn học và nghệ thuật. Tập 2, NXB Văn học, HN, 1986, tr.360

4 Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, HN, 1995, tr.30

5 Theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng.

6 ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, NXB CTQG ST. HN, 2021, tr.36

Chuyên đề