Ảnh minh hoạ |
Theo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014 về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 108 đang được Bộ Tư pháp thẩm định, một số quy định tại 2 nghị định này không còn phù hợp với Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2021) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2020).
Chính vì thế, dự thảo đã đề xuất sửa đổi quy định về đối tượng tinh giản biên chế là cán bộ, công chức thông qua việc đánh giá, phân loại hằng năm được xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực để bảo đảm phù hợp với luật.
Cụ thể là “có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm nên không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhưng không thể bố trí việc làm khác”. Hoặc có 2 liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công chức có 1 năm được phân loại đánh giá xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ và 1 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác.
Về chính sách tinh giản biên chế, kế thừa quy định còn phù hợp tại Nghị định 108/2014 và Nghị định số 113/2018, cơ quan soạn thảo - Bộ Nội vụ đề nghị chỉ sửa đổi đối với quy định liên quan đến tuổi để thực hiện chính sách về hưu trước tuổi và tuổi tính trợ cấp hưởng chính sách về hưu trước tuổi; tuổi thực hiện chính sách thôi việc ngay; tuổi không được thực hiện chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưởng lương thường xuyên từ ngân sách nhà nước.
Theo đó, tuổi hưởng chính sách về hưu trước tuổi: Thấp hơn tối đa 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động năm 2019.
Đối tượng tinh giản biên chế nếu có tuổi thấp hơn tối đa 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, còn được hưởng các chế độ như: Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi; được trợ cấp 3 tháng tiền lương cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với quy định; được trợ cấp 5 tháng tiền lương cho hai mươi năm đầu công tác, có đóng đủ bảo hiểm xã hội…
Đối tượng tinh giản biên chế nếu có tuổi đời thấp hơn 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động thì không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.
Điều 169 Bộ Luật lao động quy định về tuổi nghỉ hưu
1. Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu.
2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ.
3. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.