Nhiều ngân hàng công bố lợi nhuận trước thuế 9 tháng năm 2020 tăng trưởng 2 con số. Ảnh: Lê Tiên |
Báo cáo tài chính của Ngân hàng TMCP Hàng hải (MSB) cho biết, lợi nhuận trước thuế trong 9 tháng năm 2020 đạt 1.666 tỷ đồng, tăng khoảng 56% so với cùng kỳ năm trước. Tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), lợi nhuận trước thuế sau 9 tháng đạt gần 9.400 tỷ đồng, tăng trưởng 30% so với cùng kỳ năm 2019. Tương tự, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) tiếp tục ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận cao, đạt 4.025 tỷ đồng trong 9 tháng, tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Tại Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), lợi nhuận trước thuế quý III tăng 10%, đạt 3.015 tỷ đồng.
Ngược lại với điểm sáng về lợi nhuận, nhiều ngân hàng ghi nhận số nợ xấu tăng đáng kể sau 9 tháng năm 2020. Tại VPBank, nợ xấu nội bảng cuối tháng 9 ở mức 10.147 tỷ đồng, tăng 15,3% so với đầu năm. Nợ xấu tại MB cũng tăng hơn 1.100 tỷ đồng lên 4.036 tỷ đồng, khiến tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay tăng từ 1,16% lên 1,5%.
Bình luận về diễn biến lợi nhuận và nợ xấu của các ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng cho rằng, rất khó nhận diện chính xác về thực trạng lợi nhuận và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Bởi vì, áp dụng Thông tư 01/2020/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ do dịch Covid-19, các nhà băng đang được phép chưa chuyển nhóm nợ với các khoản vay thuộc diện chuyển sang nhóm “xấu hơn”. Điều đó có thể làm giảm tính xác thực ít nhất ở 2 điểm: do nợ xấu chưa chuyển nhóm nên lãi dự thu vẫn được hạch toán trên bảng cân đối, nhờ đó lợi nhuận vẫn tăng; không trích lập dự phòng với các khoản nợ xấu nên góp phần đẩy lợi nhuận tăng.
Dự báo về lợi nhuận và nợ xấu của các ngân hàng trong thời gian tới, ông Hiếu cho rằng, chắc chắn bức tranh thực sẽ hiện rõ sau khi Thông tư 01/2020/TT-NHNN hết hiệu lực. Tuy nhiên, vẫn còn một ẩn số khó đoán và có thể tác động mạnh mẽ nhất chính là tình hình dịch Covid-19 trên thế giới. Nếu diễn biến dịch bệnh tiếp tục phức tạp ở các nước thì kinh tế Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng đáng kể, từ đó tác động bất lợi hơn đến thị trường tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng.
Từ phía Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng tới mọi mặt đời sống kinh tế khiến nhiều khách hàng của ngân hàng, bao gồm cả người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ, dẫn đến nợ xấu tăng.
“Trong thời gian tới, tình hình dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp, chưa rõ thời điểm kết thúc, gây khó khăn cho DN, đặc biệt là các DN tham gia nhiều vào thương mại quốc tế hay dịch vụ, nhiều khả năng làm nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng lên. NHNN đã giao các đơn vị chức năng đánh giá, phân tích ứng phó tình hình, bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và toàn hệ thống”, bà Hồng nhấn mạnh.
Đồng thời, NHNN cũng nêu rõ thông điệp kiểm soát chặt chẽ tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Báo cáo của Chính phủ vừa gửi đến đại biểu Quốc hội khóa XIV cho biết, dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản (BĐS) tập trung chủ yếu vào dư nợ phục vụ mục đích tự sử dụng (vay mua nhà để ở).
Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với mục đích kinh doanh BĐS trong tổng dư nợ lĩnh vực BĐS ngày càng giảm (thời điểm 31/12/2017 là 45,63%, 31/12/2018 là 35,49%, 31/12/2019 là 32,95%). Đến cuối tháng 8/2020, dư nợ tín dụng lĩnh vực BĐS tăng 4,78% so với cuối năm 2019, chiếm 19,55% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, dự nợ tín dụng phục vụ mục đích kinh doanh BĐS tăng 5,32%, chiếm 33,91% tổng dư nợ tín dụng BĐS; dư nợ tín dụng BĐS phục vụ mục đích tự sử dụng tăng 4,5%, chiếm 66,09% tổng dư nợ tín dụng BĐS. Tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư kinh doanh chứng khoán năm 2018 là 14,7%, năm 2019 là 7,49%, đến cuối tháng 8/2020 giảm 10,35% so với cuối năm 2019, chiếm 0,32% tổng dư nợ tín dụng.