Tìm lời giải cho bài toán vốn đầu tư vào năng lượng

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Theo Dự thảo Đề án điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt Đề án ĐCQHNL), ước tính cần khoảng 24.270 - 28.277 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho mục tiêu tăng trưởng cao trong thời gian tới. Trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách có hạn, cần giải pháp đột phá để thu hút nguồn lực tư nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng.

Nhu cầu vốn đầu tư của ngành năng lượng giai đoạn 2021 - 2050 là khoảng 24.270 - 28.277 nghìn tỷ đồng. Ảnh: Nguyễn Cường
Nhu cầu vốn đầu tư của ngành năng lượng giai đoạn 2021 - 2050 là khoảng 24.270 - 28.277 nghìn tỷ đồng. Ảnh: Nguyễn Cường

Nhu cầu vốn lớn

Đề án ĐCQHNL được xây dựng trong bối cảnh Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng - đại diện nhà thầu tư vấn xây dựng Dự thảo Đề án ĐCQHNL cho biết, nguồn lực để hiện thực hóa mục tiêu quy hoạch là rất lớn.

Theo tính toán, tổng nhu cầu đất phục vụ cho phát triển hạ tầng ngành năng lượng đến năm 2030 là khoảng 128,3 nghìn ha; định hướng đến năm 2050 sẽ tăng lên 282,9 nghìn - 321,1 nghìn ha. Tổng diện tích mặt biển cho phát triển năng lượng (kể cả điện gió ngoài khơi phục vụ sản xuất năng lượng xanh) đến năm 2030 là khoảng 336,1 nghìn ha; định hướng đến năm 2050 khoảng 2,945 triệu - 3,355 triệu ha.

Đặc biệt, nhu cầu vốn thực hiện giai đoạn tới là rất lớn để đầu tư vào 3 phân ngành: phân ngành dầu khí (tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp khí, chế biến khí, vận chuyển - tàng trữ và phân phối sản phẩm khí); phân ngành than (dự án cảng xuất, nhập than, hệ thống vận tải, kho trung chuyển dự trữ) và phân ngành điện lực và năng lượng tái tạo cho sản xuất điện.

“Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư của toàn ngành giai đoạn 2021 - 2050 là khoảng 24.270 - 28.277 nghìn tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2026 - 2030 là 4.878 - 5.482 nghìn tỷ đồng; định hướng giai đoạn 2031 - 2050 là 19.392 - 22.795 nghìn tỷ đồng”, ông Cường cho biết.

Nhằm huy động được nguồn vốn “khổng lồ” này, đơn vị tư vấn đề xuất áp dụng các cơ chế, mô hình tài chính linh hoạt phù hợp thông lệ quốc tế, bảo đảm hiệu quả, không phân bổ bình quân. Nghiên cứu xây dựng, ban hành cơ chế bảo lãnh cấp Chính phủ có điều kiện cho các dự án năng lượng quy mô lớn, quan trọng, cấp bách quốc gia. "Với nhu cầu vốn đầu tư lớn như tính toán thì nguồn lực đầu tư quốc tế đóng vai trò quan trọng. Khi sử dụng nguồn lực này phải tuân theo quy định quốc tế trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả, hài hòa hóa rủi ro, lợi nhuận... Do đó, việc nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo lãnh Chính phủ có điều kiện đối với dự án quy mô lớn, quan trọng cấp bách nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia là cần thiết", ông Cường thông tin.

Cũng theo đơn vị tư vấn, trong bối cảnh nguồn ngân sách có hạn, vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài là những động lực quan trọng nhất cho phát triển nguồn điện, đặc biệt là năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), LNG, hệ thống lưu trữ năng lượng (Battery Energy Storage System - BESS) quy mô nhỏ và vừa, điện sinh khối và điện rác... Vốn của doanh nghiệp nhà nước sẽ tập trung cho các lĩnh vực hạ tầng chiến lược bảo đảm an ninh năng lượng, gồm: hạ tầng phục vụ vận hành hệ thống điện và thị trường điện, hạ tầng dự trữ nhiên liệu quốc gia, hệ thống trục truyền tải điện, nguồn điện chiến lược và thủy điện tích năng...

15.jpg
Vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài là những động lực quan trọng cho phát triển nguồn điện, đặc biệt là năng lượng tái tạo, LNG, điện sinh khối và điện rác... Ảnh: Phú An

Cần tính toán tính khả thi

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho rằng, về cơ bản, Dự thảo Đề án trình bày khá đầy đủ các phân ngành năng lượng, trong đó khí và than. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ kỹ thuật, ông Thập băn khoăn về tính khả thi thực hiện quy hoạch khi Dự thảo Đề án chỉ đặt tầm nhìn 2050 - thời điểm cam kết hoàn thành mục tiêu cam kết Net Zero tại COP26. Theo ông Thập, hiện có nhiều ý kiến cho rằng, mục tiêu Net Zero toàn cầu có thể bị trì hoãn sang năm 2070 - 2080, thậm chí đến năm 2100 do những thách thức lớn về kinh tế, công nghệ và chính sách. "Các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng kho cảng, nhà máy đều phải tính toán sao cho trong 1 vòng đời dự án có thể thu hồi vốn, bảo đảm hiệu quả đầu tư, như vậy thì các ngân hàng mới xuống tiền. Nếu chỉ đưa ra mốc thời gian tới năm 2050 thì sẽ khó thu hút nhà đầu tư”, ông Thập nêu quan điểm.

Với nhận định này, ông Thập đề nghị, đơn vị tư vấn cần nghiên cứu kịch bản trong tương lai cho vấn đề này, trong đó có kịch bản đối với mục tiêu Net Zero để làm kim chỉ nam cho điều chỉnh quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia.

Trong khi đó, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, Dự thảo Đề án cập nhật nhiều nội dung của Nghị quyết số 70-NQ/TW, nhưng chưa thể hiện rõ cơ chế đột phá mà Nghị quyết nêu, trong đó có cơ chế đặc thù để thu hút nguồn vốn tư nhân.

Về phân bổ vốn, ông Tuấn đề nghị, Ban soạn thảo cần làm rõ, trong tổng số vốn đầu tư “khổng lồ” được tính toán để thực hiện Quy hoạch thì tỷ lệ vốn vốn đầu tư công và vốn tư nhân là như thế nào để có giải pháp khai thác nguồn vốn tư nhân hiệu quả.

Ông Vũ Quang Đăng, tư vấn độc lập lĩnh vực năng lượng của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nêu vấn đề, Dự thảo Đề án có đề xuất sẽ thực hiện bảo lãnh Chính phủ cho các dự án lớn, quan trọng, cấp bách. Theo đó, cần làm rõ cơ chế bảo lãnh cụ thể như thế nào, các dạng dự án được bảo lãnh Chính phủ, đối tượng được thụ hưởng chính sách...

Giải đáp vấn đề này, đại diện Viện Năng lượng cho biết, đây là bảo lãnh có điều kiện, Ban soạn thảo sẽ tham vấn các chuyên gia, tổ chức, trong đó có tổ chức tài chính… về những nội dung cụ thể để tăng tính khả thi của Quy hoạch điều chỉnh.

Kết nối đầu tư