|
| Ảnh minh họa: Internet |
Tuy nhiên, theo nhiều doanh nghiệp, con đường phát triển công trình xanh vẫn còn nhiều thử thách, rào cản thực tế từ cơ chế chính sách khuyến khích chưa thực sự đồng bộ, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn xanh dẫn đến áp lực chi phí đầu tư ban đầu cho chuyển đổi xanh.
Những tác động ngày càng cực đoan từ biến đổi khí hậu tới đời sống cho thấy nhu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, đặc biệt tại các đô thị lớn. Việc đầu tư vào hạ tầng thích ứng khí hậu và thúc đẩy công trình xanh được cho là một trong những giải pháp tối ưu, góp phần giảm thiểu tác động môi trường và tăng khả năng chống chịu của đô thị Việt Nam. Đồng thời, theo đánh giá của một số doanh nghiệp, triển vọng của công trình xanh trong tương lai rất khả quan, khi ý thức “sống xanh” dần trở nên phổ biến, công trình xanh sẽ dần trở thành tiêu chuẩn sống bền vững. Nhu cầu sống xanh tăng sẽ kéo theo sự phát triển của công nghệ vật liệu xanh, mở rộng quy mô thị trường. Bên cạnh đó, sự đồng hành mạnh mẽ hơn từ phía Nhà nước và các tổ chức liên quan có thể giúp giá thành vật liệu xanh ngày càng hợp lý và khả năng tiếp cận ngày càng rộng mở.
Theo báo cáo Tổng quan thị trường công trình xanh Việt Nam 2024 của hệ thống chứng nhận Edge và Tổ chức tài chính quốc tế IFC, thành viên của Ngân hàng Thế giới, tính đến đầu năm 2025, Việt Nam có khoảng 559 công trình xanh với tổng diện tích sàn được chứng nhận khoảng 13,6 triệu m², trong đó riêng năm 2024, Việt Nam đã có thêm 163 công trình xanh.
Con số này cho thấy sự phát triển đáng kể của công trình xanh tại Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, theo Bộ Xây dựng, tỷ lệ công trình xanh ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực.
Ông Tạ Đức Bình, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, Việt Nam có cơ hội vàng khi chuyển đổi xanh, đó là tiếp cận vốn quốc tế, thu hút các nguồn vốn FDI và ODA ưu đãi từ các quỹ khí hậu lớn và các nhà đầu tư ESG toàn cầu; nâng cao công nghệ thông qua cơ hội chuyển giao công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và sản xuất sạch; tạo việc làm xanh. Tuy nhiên, thách thức cần giải quyết là chi phí vốn cao mặc dù có ưu đãi do chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ xanh vẫn còn cao; thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ có thể dẫn đến việc lợi dụng vốn xanh cho các dự án không thực sự bền vững; thiếu cơ chế ưu đãi vượt trội về thuế, đất đai để tạo động lực cho nhà đầu tư. Để khai thác tối đa tiềm năng, ông Bình cho rằng, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hệ sinh thái đầu tư xanh, bao gồm khung pháp lý, cơ chế ưu đãi và năng lực giám sát.
Từ góc độ doanh nghiệp có hơn 16 năm phát triển trong lĩnh vực công trình xanh, bà Lưu Thị Thanh Mẫu, Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư và Xây dựng Phúc Khang chia sẻ, doanh nghiệp nhận thấy vẫn còn nhiều “bài toán” khó cần được sự hỗ trợ đồng bộ từ cơ chế và chính sách của Nhà nước. Theo đó, doanh nghiệp đề xuất cần sớm ban hành bộ tiêu chí thống nhất và hệ thống chứng nhận công trình xanh do cơ quan quản lý nhà nước thực hiện, nhằm tránh tình trạng phát triển tự phát và “xanh hình thức”, công trình chỉ gắn mác xanh. Đồng thời, cần có các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai hoặc quy trình cấp phép ưu tiên cho dự án đạt chuẩn xanh… Đây sẽ là những động lực thiết thực giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư. Việc đẩy mạnh truyền thông, đào tạo và phổ biến kiến thức về lợi ích công trình xanh đến cộng đồng và nhà đầu tư cũng rất cần thiết để hình thành nhận thức xã hội về giá trị dài hạn của công trình xanh.
Song song với sự hỗ trợ từ cơ chế, chính sách, bà Lưu Thị Thanh Mẫu cho rằng, phía chủ đầu tư cũng phải thể hiện cam kết rõ ràng và thực chất trong chiến lược phát triển của mình. Ví dụ như cam kết về lộ trình hành động minh bạch liên quan đến công trình xanh, bảo đảm “xanh thực sự” từ khâu quy hoạch, thiết kế, thi công đến vận hành…
Nhiều doanh nghiệp đề xuất thường xuyên nghiên cứu, rà soát các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật nhằm hướng dẫn, thúc đẩy, hỗ trợ các dự án, công trình đạt các tiêu chuẩn, chứng nhận về sử dụng hiệu quả năng lượng, tài nguyên, công trình xanh, phát thải thấp, trung hòa các bon. Thay vì chỉ khuyến khích, cần lồng ghép phát triển công trình xanh với các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch có liên quan cấp quốc gia và của ngành, địa phương để đặt ra chỉ tiêu, áp lực bắt buộc chuyển đổi đối với địa phương, nhà đầu tư…
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cũng nhận định, trong giai đoạn phát triển kinh tế vừa qua, chúng ta mới chỉ đưa vào yếu tố “Nhà nước khuyến khích” phát triển thị trường công trình xanh. Để tương xứng với xu thế phát triển mới, thì các công trình sử dụng vốn đầu tư công cũng cần xem xét quy định theo hướng công trình xanh nhằm dẫn dắt thị trường phát triển.