|
| Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long phát biểu tại Hội thảo |
Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, Đề án ĐCQHNL được thực hiện trong bối cảnh Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm khẳng định vai trò quan trọng của công tác bảo đảm an ninh năng lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Theo đó, Đề án ĐCQHNL lần này nhằm đánh giá toàn diện cung - cầu năng lượng quốc gia, kết nối phát triển năng lượng với các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, cùng các cam kết quốc tế của Việt Nam. Việc điều chỉnh quy hoạch phải bám sát 3 nhóm nội dung lớn.
Trước tiên là, tốc độ tăng trưởng kinh tế 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030, được nêu trong Nghị quyết 306/NQ-CP năm 2025 của Chính phủ về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo đó đòi hỏi hạ tầng năng lượng phải có độ dự phòng cao và tính sẵn sàng tuyệt đối.
Hai là yêu cầu thích ứng với việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, dẫn đến phải tính toán, xem xét lại danh mục các dự án quan trọng và ưu tiên sao cho phù hợp với các không gian kinh tế - xã hội mới sau sáp nhập.
Ba là các chủ trương, định hướng của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung quy hoạch năng lượng quốc gia.
Cùng với đó, ngành năng lượng Việt Nam đang đối mặt xu hướng phát triển mới của thế giới, thể hiện qua 5 khía cạnh chính: thị trường năng lượng quốc tế biến động, yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng, chi phí công nghệ thay đổi, chuyển dịch năng lượng tăng tốc và yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu Quy hoạch năng lượng điều chỉnh phải đề xuất được phương án phát triển hạ tầng tối ưu trên phạm vi quốc gia.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh, quy hoạch lần này có thể trở thành quy hoạch đầu tiên triển khai ngay sau khi Luật Quy hoạch mới có hiệu lực, tạo ra nhiều thay đổi so với các kỳ quy hoạch trước. “Đề nghị cơ quan chủ trì lập quy hoạch nghiên cứu thật kỹ luật này. Đồng thời, làm việc cụ thể với cơ quan chủ trì soạn thảo để ban hành các văn bản hướng dẫn, định hướng sắp tới”, Thứ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu.
Tại Hội thảo, Liên danh Viện Năng lượng - Viện Dầu khí Việt Nam - nhà thầu tư vấn báo cáo tóm tắt toàn bộ nội dung dự thảo Đề án ĐCQLNL.
Báo cáo sơ bộ của đề án cho thấy tổng cung cấp năng lượng sơ cấp (NLSC) của Việt Nam năm 2024 ước tính đạt 116 KTOE, tăng 4,9% trong giai đoạn 2021 - 2024. Trong đó, than và năng lượng tái tạo có tốc độ tăng tương ứng là 5,9%/năm và 7,8%/năm trong cùng kỳ. Điều này cho thấy dấu hiệu tốt về chuyển dịch năng lượng, nhưng tính đa dạng hóa của nguồn cung năng lượng sơ cấp vẫn cần cải thiện. Nguồn cung năng lượng sơ cấp còn phụ thuộc nhiều vào một số ít loại hình năng lượng, cũng như nhu cầu nhập khẩu nhiên liệu. Số liệu cho thấy, nhiên liệu nhập khẩu chiếm 41,9% vào tổng cung sơ cấp, đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay. Đây là xu hướng đáng lưu ý đối với việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong dài hạn.
Trong những năm tới, xu thế phát triển năng lượng thế giới sẽ tập trung vào việc thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch năng lượng, thực thi các chính sách mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu và tăng cường an ninh năng lượng. Phát triển năng lượng của Việt Nam sẽ ngày càng chịu nhiều tác động của các xu thế năng lượng toàn cầu.
Bên cạnh đó, với vai trò là một quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam cũng phải hành động mạnh mẽ hơn nữa thực thi các cam kết về chống biến đổi khí hậu. Với việc càng ngày tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều những thuận lợi và thách thức trong việc đảm bảo phát triển bền vững hệ thống năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Dự thảo Đề án ĐCQHNL, nhu cầu vốn thực hiện giai đoạn tới là rất lớn. Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư của toàn ngành giai đoạn 2021 - 2050 là khoảng 24.270 - 28.277 nghìn tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2026 - 2030 là 4.878 - 5.482 nghìn tỷ đồng; định hướng giai đoạn 2031 - 2050 là 19.392 - 22.795 nghìn tỷ đồng. Để huy động được nguồn vốn “khổng lồ” này, đơn vị tư vấn nhấn mạnh, vốn tư nhân và FDI có vai trò chủ lực, là động lực quan trọng nhất cho phát triển nguồn điện, đặc biệt là năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), LNG, BESS quy mô nhỏ và vừa, điện sinh khối và điện rác...
Vốn doanh nghiệp nhà nước tập trung cho các lĩnh vực hạ tầng chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng, gồm: hạ tầng phục vụ vận hành hệ thống điện và thị trường điện, hạ tầng dự trữ nhiên liệu quốc gia, hệ thống trục truyền tải điện, nguồn điện chiến lược và thủy điện tích năng...