“Mở đường” cho vật liệu về công trường

(BĐT) - Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP về cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và khoáng sản quy định nhiều nội dung liên quan đến khai thác, cấp phép, điều chỉnh giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng, phục vụ thi công các công trình, dự án. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày ký ban hành 21/9/2025 đến hết ngày 28/2/2027, được kỳ vọng mở đường cho vật liệu về các công trường.

Dự án Đường vành đai phía Bắc Quảng Nam (cũ), nay là TP. Đà Nẵng, cần 500 m3 đất đắp nhưng chưa có nguồn cung. Ảnh: Hà Minh
Dự án Đường vành đai phía Bắc Quảng Nam (cũ), nay là TP. Đà Nẵng, cần 500 m3 đất đắp nhưng chưa có nguồn cung. Ảnh: Hà Minh

Những dự án “khát” vật liệu xây dựng

Dự án Đường ven biển Quảng Trị dài trên 55 km, tổng mức đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng được khởi công xây dựng tháng 4/2022, dự kiến hoàn thành trong năm 2026. Tuy nhiên, theo Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng (QLDA ĐTXD) tỉnh Quảng Trị (chủ đầu tư), tiến độ thi công chưa đạt kế hoạch do thiếu đất đắp.

“Dự án cần khoảng 2 triệu m³ đất đắp nền nhưng chỉ được đáp ứng một phần rất nhỏ. Riêng đoạn đi qua 2 huyện Vĩnh Linh và Gio Linh chưa có nguồn đất san lấp”, Ban QLDA ĐTXD tỉnh Quảng Trị cho hay.

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) Quảng Trị, nhu cầu đất đắp của các dự án (riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị cũ) khoảng 4,2 triệu m3/năm nhưng hiện chỉ đáp ứng khoảng 800 nghìn m3, còn thiếu 3,5 triệu m3 mỗi năm.

Tại Dự án Đường ven biển Vạn Ninh - Ninh Hòa (tổng mức đầu tư 2.031 tỷ đồng), khởi công tháng 12/2024, dự kiến hoàn thành vào tháng 6/2027 nhưng mới tổ chức thi công được 2,7/20,5 km. Bên cạnh vướng mắc về mặt bằng, Dự án cần 1,8 triệu m3 đất đắp nhưng mới được cung ứng khoảng 600.000 m3, thiếu 1,2 triệu m3.

Tại Đà Nẵng, Công ty CP Đại Thiên Trường liên danh với Công ty CP 873 - Xây dựng công trình giao thông đang thi công Gói thầu xây lắp trị giá 375,3 tỷ đồng thuộc Dự án Đường vành đai phía Bắc Quảng Nam. Dự án được khởi công xây dựng hơn một năm nay, có nhu cầu khoảng 500.000 m3 đất đắp, nhưng vẫn chưa có mỏ đất cung ứng nên tiến độ rất chậm. Ngoài ra, Dự án cần 35.576 m3 cát thô và cát hạt nhỏ để xử lý nền yếu nhưng Đà Nẵng không có nguồn cát để thi công hạng mục này. Nhà thầu đã nhiều lần đề nghị Chủ đầu tư, cấp thẩm quyền Đà Nẵng đẩy nhanh cấp phép khai thác đất tại mỏ Hóc Tra và mỏ đất khu vực khai thác thuộc Dự án Đầu tư xây dựng công trình trường bắn, thao trường huấn luyện lực lượng vũ trang Đại Lộc (giai đoạn 2).

Với Dự án Hoàn thiện đường ven biển 129 (Võ Chí Công) tại Đà Nẵng, cả 2 gói thầu xây lắp đang thiếu đất đắp nền đường lớp K95, K98, buộc nhà thầu phải vào Quảng Ngãi để mua, nhưng khối lượng rất hạn chế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. Theo Ban QLDA ĐTXD các công trình giao thông Quảng Nam (chủ đầu tư, thuộc UBND TP. Đà Nẵng), để cung ứng đất đắp cho Dự án, mỏ đất NT-BS01 (trữ lượng khoảng 600.000 m3) và NTBS02 (trữ lượng 640.000 m3) thuộc địa bàn xã Tam Anh đã được tổ chức đấu giá. Đơn vị trúng đấu giá đã nộp hồ sơ xác định trữ lượng và thăm dò đối với mỏ đất NT-BS01. Mỏ đất NT-BS03 (trữ lượng khoảng 400.000 m3) tại xã Tam Mỹ cũng tổ chức đấu giá xong nhưng thủ tục cấp phép chậm nên vẫn chưa đưa vào khai thác.

Nhiều hướng mở từ Nghị quyết 66.4/2025/NQ-CP

Theo Nghị quyết 66.4/2025/NQ-CP, khai thác khoáng sản nhóm IV (đất sét, đất đồi, đất có tên gọi khác; đất lẫn đá, cát, cuội hoặc sỏi; cát, trừ cát, sỏi lòng sông, lòng hồ và khu vực biển) cung cấp vật liệu cho các dự án đầu tư công, dự án theo phương thức đối tác công tư (PPP), công trình quan trọng quốc gia, cũng như các dự án phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền địa phương sẽ được áp dụng cơ chế đặc thù. Ngoài ra, các công trình xây dựng khẩn cấp, nhiệm vụ phòng chống thiên tai cũng thuộc phạm vi điều chỉnh.

Đối với việc thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản nhóm IV để phục vụ thi công các công trình, dự án, Chính phủ cho phép không phải thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án; không căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất (trừ đất quốc phòng, an ninh); không thực hiện thủ tục thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường. Chủ tịch UBND cấp tỉnh cấp giấy phép thăm dò, khai thác cho nhà thầu hoặc tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện, phục vụ trực tiếp cho các công trình, dự án được quy định.

Nghị quyết cũng cho phép được điều chỉnh giấy phép để nâng công suất khai thác (không tăng trữ lượng đã cấp phép) theo nhu cầu của các công trình, dự án nhưng không quá 50% đối với cát, sỏi lòng sông, cửa biển và không hạn chế đối với khoáng sản nhóm III và nhóm IV khác. Bên cạnh đó, Nghị quyết cho phép khoanh định một số khu vực vào diện không đấu giá quyền khai thác, bao gồm: mỏ khoáng sản nhóm III, nhóm IV cung cấp vật liệu cho các công trình, dự án được liệt kê; các mỏ đá vôi, sét làm nguyên liệu sản xuất xi măng và phụ gia xi măng nằm trong quy hoạch được phê duyệt...

Đại diện lãnh đạo Sở NN&MT tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, Nghị quyết 66.4 đã tháo gỡ nhiều điểm nghẽn về pháp lý và thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời nguồn cung vật liệu xây dựng, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Lãnh đạo Sở NN&MT Khánh Hòa đánh giá: “Đây là chủ trương rất kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho các dự án về nguồn vật liệu. Tại Khánh Hòa, qua khảo sát khu vực Dự án Đường ven biển Vạn Ninh - Ninh Hòa có các vị trí có thể áp dụng Nghị quyết 66.4 như: Mỏ Hòn Ấu có diện tích khoảng 40 ha, tổng trữ lượng khoảng 9,6 triệu m3, trong đó có 2,9 triệu m3 đất tầng mặt; mỏ Hòn Trụi có diện tích khoảng 200 ha, với trữ lượng khoảng 30 triệu m3”.

Kết nối đầu tư