|
| Việc thu hút nhà thầu xây dựng nước ngoài có công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến giúp nâng cao chất lượng công trình. Ảnh: Lê Tiên |
Trả lời Công văn số 11198/BTC-PC của Bộ Tài chính về việc đề nghị rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, điều kiện đầu tư kinh doanh và đề xuất cắt giảm, sửa đổi, bổ sung Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Luật Đầu tư 2020, VCCI vừa đề xuất loại bỏ 16 ngành nghề, trong đó có “hoạt động xây dựng của nhà thầu nước ngoài” (mục 109 Phụ lục IV Luật Đầu tư 2020).
VCCI cho rằng, đây là ngành, nghề áp dụng riêng cho nhà thầu nước ngoài. Việc đưa ngành, nghề này vào Danh mục tại Phụ lục IV là không phù hợp khi các ngành nghề tại Danh mục áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư. Việc tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng các nguyên tắc theo quy định tại pháp luật về đầu tư. Việc bỏ ngành nghề này ra khỏi Danh mục tại Phụ lục IV không đồng nghĩa với việc nhà thầu nước ngoài có hoạt động xây dựng tại Việt Nam không cần phải xin phép, mà hoạt động này sẽ áp dụng theo cơ chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định số 175/2024/NĐ-CP đã quy định về các điều kiện áp dụng đối với nhà thầu nước ngoài khi thực hiện hoạt động xây dựng tại Việt Nam.
Một số chuyên gia pháp luật ủng hộ đề xuất trên nhưng lưu ý về cách diễn đạt. Việc dùng từ “bỏ” hay “bãi bỏ” có thể gây hiểu nhầm là xóa bỏ hoàn toàn yêu cầu cấp phép đối với hoạt động xây dựng của nhà thầu nước ngoài, nên dùng từ “đưa ra khỏi” hay “loại khỏi” Danh mục để chuyển về quản lý theo pháp luật chuyên ngành nhằm thống nhất cách thức quản lý chung đối với nhà thầu xây dựng. Danh mục này là áp dụng cơ chế quản lý riêng đối với nhà đầu tư.
Theo nhiều ý kiến, “hoạt động xây dựng của nhà thầu nước ngoài” vẫn bắt buộc phải xin phép và tuân thủ những điều kiện ràng buộc cụ thể. Theo Điều 114 Nghị định số 175/2024/NĐ-CP, nhà thầu nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động xây dựng khi có quyết định trúng thầu hoặc được chọn thầu của chủ đầu tư/nhà thầu chính (phụ). Nhà thầu nước ngoài phải liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam, trừ trường hợp nhà thầu trong nước không đủ năng lực tham gia vào bất kỳ công việc nào của gói thầu. Khi liên danh hoặc sử dụng nhà thầu Việt Nam phải phân định rõ nội dung, khối lượng và giá trị phần công việc do nhà thầu Việt Nam trong liên danh, nhà thầu phụ Việt Nam thực hiện.
Ông Nguyễn Nam Trung - Chủ tịch Hội Pháp luật xây dựng Việt Nam - nhấn mạnh, vai trò tiền kiểm đối với hoạt động của nhà thầu nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, từng có giai đoạn quản lý nhà nước lỏng lẻo nên nhiều nhà thầu nước ngoài tự do ồ ạt vào Việt Nam, thực hiện công trình kém chất lượng, vi phạm an toàn lao động, chậm tiến độ, thậm chí đưa người và máy móc, thiết bị thi công vào Việt Nam trái quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu chỉ hậu kiểm là không đủ, khi năng lực và nguồn lực giám sát còn hạn chế.
Ông Trung dẫn chứng, một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Campuchia… cũng gặp vấn nạn công trình do nhà thầu nước ngoài thi công kém chất lượng, thậm chí đổ sập trong quá trình xây dựng, gây hậu quả khó khắc phục.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận những lợi ích khi thu hút nhà thầu xây dựng nước ngoài có công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, đẩy nhanh tiến độ công trình... Một số ý kiến cho rằng, các điều kiện cấp phép cần có sự sàng lọc hợp lý để bảo đảm an toàn, chất lượng và tuân thủ pháp luật, nhưng cũng cần nghiên cứu để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho nhà thầu nước ngoài nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí tuân thủ.
Rà soát của VCCI cho thấy, Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện có xu hướng tăng lên qua các năm, do các luật chuyên ngành ban hành sau bổ sung thêm. Mục tiêu của việc xác định ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là hướng đến kiểm soát các hoạt động kinh doanh trong các ngành nghề này tác động đến các lợi ích công cộng như an ninh quốc gia, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng (khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư 2020). Tuy nhiên, từ năm 2020 đến nay chưa có đợt rà soát, đánh giá tổng thể để nhận diện tính phù hợp của các ngành nghề trong Danh mục.
“Qua các đợt rà soát từ trước, phản ánh của doanh nghiệp, hiệp hội và trong bối cảnh tình hình kinh tế hiện nay, yêu cầu thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, việc đánh giá để cắt giảm, sửa đổi Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư là cần thiết. Các ngành, nghề trong Danh mục cần được xem xét dưới góc độ tính thống nhất, tránh trường hợp chồng lấn giữa các ngành nghề trong cùng Danh mục và các danh mục ngành nghề theo cơ chế đặc thù khác”, VCCI nhấn mạnh.
VCCI đề xuất bãi bỏ 16 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, gồm:
- Kinh doanh dịch vụ kế toán
- Kinh doanh dịch vụ làm thủ tục hải quan
- Xuất khẩu gạo
- Kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh
- Hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam
- Kinh doanh dịch vụ việc làm
- Kinh doanh dịch vụ cho thuê lại lao động
- Kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô
- Kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi phương tiện thủy nội địa
- Kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa tàu biển
- Hoạt động xây dựng của nhà thầu nước ngoài
- Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng
- Kinh doanh dịch vụ tư vấn du học
- Kinh doanh dịch vụ phổ biến phim
- Kinh doanh dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, tổ chức thi người đẹp, người mẫu
- Hoạt động in, đúc tiền
* Thu hẹp và/hoặc xem xét phạm vi của 5 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, gồm:
- Nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm, sửa chữa, bảo dưỡng tàu bay không người lái, phương tiện bay khác, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay và trang bị, thiết bị của tàu bay không người lái, phương tiện bay khác
- Kinh doanh phân bón
- Kinh doanh giống thủy sản
- Kinh doanh dịch vụ khai thác tài nguyên nước
- Kinh doanh vàng