Áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu: Làm gì để giữ chân nhà đầu tư nước ngoài?

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu là bước đi tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Điều này có thể làm suy giảm lợi thế của Việt Nam trong cuộc đua thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, việc lựa chọn cách thức hỗ trợ mang tính “bù đắp” là bài toán cần lời giải tối ưu xét về khía cạnh phù hợp quy định pháp lý và giữ vững vị thế Việt Nam trong thu hút dòng vốn FDI trên toàn cầu.
Việt Nam cần cải thiện về thủ tục hành chính, chất lượng hạ tầng, nguồn nhân lực, chính sách thị thực, tăng trưởng xanh để duy trì tính cạnh tranh trong thu hút FDI. Ảnh: Lê Tiên
Việt Nam cần cải thiện về thủ tục hành chính, chất lượng hạ tầng, nguồn nhân lực, chính sách thị thực, tăng trưởng xanh để duy trì tính cạnh tranh trong thu hút FDI. Ảnh: Lê Tiên

Quan ngại giảm lợi thế

Việt Nam là một trong những nước đồng thuận thực thi Chương trình cải cách chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) do G20 và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng, trong đó có nội dung “đặt ra mức thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (TTTTC) 15% đối với các công ty đa quốc gia nhằm ngăn các công ty này chuyển lợi nhuận sang quốc gia có thuế suất thấp để tránh thuế thu nhập”.

Để thực hiện điều này, một quy định quan trọng là thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT), theo đó, các nước có mức thuế thu nhập doanh nghiệp thực tế thấp hơn 15% được quyền ban hành quy định pháp luật để thu thuế bổ sung. Nếu không, các nước có công ty mẹ sẽ được quyền thu thêm phần thuế chênh lệch so với TTTTC.

Theo thống kê, nhiều nền kinh tế đã có kế hoạch bổ sung, sửa đổi nội luật trong năm 2023 để áp dụng TTTTC từ năm 2024, trong đó Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản… đang có số vốn FDI lớn vào Việt Nam và có nhiều doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng của TTTTC.

Nếu các doanh nghiệp FDI đã đầu tư tại Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định hiện hành thì các nước có công ty mẹ sẽ thu thêm phần thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch từ mức thuế thực tế đang nộp so với TTTTC (15%).

Nếu Việt Nam áp dụng TTTTC ở mức 15% có thể làm giảm sức hút FDI bởi hiện tại, nhiều doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đang được hưởng thuế suất ở mức 10%, 8% thậm chí chỉ 5%.

Các nước nhận vốn đầu tư từ nước ngoài, tương tự như Việt Nam đang nghiên cứu để đưa ra chính sách ứng phó TTTTC, trong đó có việc nghiên cứu một số giải pháp hỗ trợ về tài chính để giữ chân các công ty thuộc đối tượng của TTTTC và thu hút các công ty mới.

Ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) cho rằng, để hạn chế tác động tiêu cực của TTTTC đối với thu hút đầu tư, Việt Nam cần có các giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng phải bảo đảm không vi phạm quy tắc về TTTTC, phù hợp với cam kết, thông lệ quốc tế, công khai minh bạch, giảm thiểu tác động xấu tới môi trường đầu tư.

Các giải pháp hỗ trợ cần được nghiên cứu ban hành có thể bao gồm việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình đầu tư hạ tầng cơ bản cho sản xuất, đầu tư hình thành tài sản cố định cho sản xuất công nghiệp, bảo vệ môi trường, hỗ trợ nhà ở cho công nhân, hỗ trợ bảo hiểm xã hội, y tế cho người lao động, hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường. Để thực hiện được chương trình hỗ trợ, Nhà nước cũng cần bố trí các nguồn lực tài chính, đất đai, đào tạo nguồn nhân lực để duy trì sức hấp dẫn và ổn định môi trường đầu tư.

Hơn 1.000 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024. Ảnh: Lê Tiên

Hơn 1.000 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024. Ảnh: Lê Tiên

Cân nhắc các giải pháp hỗ trợ

Từ góc độ doanh nghiệp FDI, ông Choi Joo Ho, Tổng giám đốc Tổ hợp Samsung tại Việt Nam cho biết, trong bối cảnh TTTTC đang được triển khai áp dụng, chính sách miễn, giảm thuế của Việt Nam sẽ không còn phát huy tác dụng đối với các doanh nghiệp FDI nữa.

Do đó, theo ông Choi Joo Ho, Chính phủ Việt Nam cần nghiên cứu thay thế chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp sang chính sách hỗ trợ đầu tư mang lại hiệu quả thực cho nhà đầu tư. Trong đó, có thể xem xét hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt trên cơ sở chi phí hoặc hình thức khấu trừ thuế hoàn lại đạt chuẩn.

Ông Nguyễn Hải Minh, Phó Chủ tịch EuroCham tại Việt Nam:

Thuế suất ưu đãi không phải là yếu tố có tính quyết định cho việc đầu tư tại Việt Nam. Thực tế, nếu ưu đãi giúp giảm thuế suất nhưng các chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp không lớn thì mức đóng thuế vẫn cao, chưa kể các chi phí không chính thức sẽ làm tăng chi phí sản xuất, kinh doanh. Trong con mắt của các nhà đầu tư, sự đơn giản hóa, minh bạch trong tuân thủ thuế mới là điều được đánh giá cao.

Trong khi đó, ông Nguyễn Hải Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) cho biết, ưu đãi thuế vốn là một lợi thế thu hút FDI của Việt Nam trong quá khứ, song cần nhìn nhận đây có phải là yếu tố thực sự mang lại lợi thế lớn hay không.

“Các cuộc khảo sát với 1.500 doanh nghiệp châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam cho thấy, trong mắt các nhà đầu tư, Việt Nam nổi lên với lợi thế về vị trí địa lý, lao động, đất đai, mức độ hội nhập của nền kinh tế qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). Bên cạnh đó, trong số các yếu tố cần cải thiện, đứng đầu là thủ tục hành chính, tiếp đó là chất lượng hạ tầng, nguồn nhân lực, chính sách thị thực, tăng trưởng xanh. Ưu đãi thuế là yếu tố xếp sau 5 yếu tố trên”, ông Minh nói.

Ông Robert King, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam cho rằng, khi các công cụ ưu đãi về thuế không còn phát huy hiệu quả, Việt Nam cần có biện pháp hỗ trợ để duy trì tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Tuy nhiên, việc hỗ trợ bằng tiền cần hết sức cân nhắc bởi có thể không phù hợp với quy tắc áp dụng của TTTTC.

Ông Robert King đề xuất Chính phủ hỗ trợ trực tiếp vào các chi phí đầu tư, chi phí nghiên cứu và phát triển cũng như hỗ trợ sản xuất những sản phẩm được ưu tiên thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng các công trình bảo vệ môi trường, các hoạt động giảm phát thải nhằm khuyến khích bảo vệ môi trường.

Mặt khác, trong thời điểm kinh tế suy thoái, có thể xem xét việc hỗ trợ các chi phí liên quan đến phúc lợi cho nhân viên như chi phí xây dựng ký túc xá, nhà trẻ, trạm y tế phục vụ cho công nhân tại các khu công nghiệp. Ngoài ra, có thể xem xét hỗ trợ các khoản chi phí để giảm giá thành sản xuất như hỗ trợ tiền điện, tiền xe đưa đón công nhân.

Cùng quan điểm, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam (VTCA) cho rằng, không nên hỗ trợ bằng tiền mặt, bởi lẽ, Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế nhưng phải phù hợp với nội luật và đặc biệt hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.

“Khảo sát từ nhiều doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam không chỉ vì được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mà quan trọng hơn là các yếu tố về lực lượng lao động, vị trí địa lý. Thay vì ưu đãi thuế chưa hợp lý, việc cắt giảm các chi phí như vận chuyển, cấp quyền khai thác mỏ... sẽ mang lại giá trị gia tăng tốt hơn cho môi trường đầu tư Việt Nam”, bà Cúc nói.

Đối tượng áp dụng TTTTC là các tập đoàn đa quốc gia, có doanh thu hợp nhất từ 750 triệu EUR hàng năm trở lên trong ít nhất 2 - 4 năm liền trước thời điểm thực hiện TTTTC.

Theo thống kê sơ bộ từ cơ sở dữ liệu doanh nghiệp toàn cầu, hiện có khoảng 1.017 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng thuế TTTTC. Trong đó có ít nhất trên 100 doanh nghiệp lớn có khả năng chịu ảnh hưởng của TTTTC nếu áp dụng từ năm 2024. Theo đó, nếu các quốc gia khác đều áp dụng TTTTC bắt đầu từ năm 2024, các quốc gia có công ty mẹ sẽ được thu thêm phần thuế chênh lệch năm 2024 ước tính khoảng 12 - 20 nghìn tỷ đồng (theo số liệu quyết toán thuế năm 2022).

Nguồn: Tổng cục Thuế

Chuyên đề