Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam (VRDF) lần thứ hai năm 2019 với chủ đề “Việt Nam: Khát vọng thịnh vượng - Ưu tiên và hành động” vừa chính thức khép lại chiều qua (19/9) tại Hà Nội. Diễn đàn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) chủ trì, phối hợp với các đối tác phát triển tổ chức. Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng và Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Ousmane Dione đồng chủ trì Diễn đàn.

VRDF 2019 được tổ chức sớm hơn VRDF 2018 nhằm mục đích thu nhận các ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong nước và quốc tế có uy tín cho nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030, phương hướng và nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 dự kiến trình Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (Khóa XII) vào tháng 10 tới.

Chủ đề và nội dung của VRDF 2019 được lựa chọn mang tính bao trùm hơn, bao gồm cả các vấn đề về cải cách thể chế kinh tế thị trường, đổi mới sáng tạo để vượt qua bẫy thu nhập trung bình trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 và ưu tiên và hành động vì một Việt Nam thịnh vượng.

Chủ đề của VRDF 2019 thể hiện nỗ lực của Chính phủ, cộng đồng và người dân hướng tới thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, nâng cao năng suất lao động và xây dựng năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia.

Đồng thời, thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ đối với việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, mang tính hiện đại, hội nhập và quyết tâm thực hiện đổi mới sáng tạo một cách hiệu quả để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, phát triển nhanh và bền vững.

Quy mô, tầm vóc VRDF 2019 lớn hơn so với VRDF 2018: Số lượng đại biểu nhiều hơn với đối tượng tham dự rộng hơn (có một số đại biểu đến từ các quốc gia trong và ngoài khu vực).

VRDF 2019 thu hút được các diễn giả quốc tế uy tín, được kỳ vọng sẽ có những chia sẻ có giá trị về hiểu biết, kinh nghiệm quốc tế và có những gợi ý, đề xuất khả thi cho Việt Nam.

VRDF mang tầm vóc quốc tế với sự hiện diện của một số đại biểu đến từ các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia đang phát triển mong muốn được học hỏi kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm của Việt Nam nhằm đưa quốc gia mình lên tầm phát triển mới.

Thời lượng VRDF 2019 (cả ngày) dài gấp đôi thời lượng VRDF 2018 (hơn một buổi sáng) cho thấy tầm quan trọng lớn hơn và mong muốn thu nhận nhiều đóng góp hơn cả từ các diễn giả, người thảo luận và đại biểu tham dự.

Trong khi VRDF 2018 tập trung vào các bài trình bày và bình luận, VRDF 2019 được thiết kế thành hai phiên thảo luận chuyên đề theo nhóm diễn giả (panel discussion) về hai tiểu chủ đề: (i) Hướng tới thể chế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập và (ii) Đổi mới sáng tạo để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và một phiên toàn thể Hành động vì một Việt Nam thịnh vượng với sự hiện diện của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Phiên này.

VRDF 2019 dành nhiều thời gian cho thảo luận chung tại các phiên, gần 1 tiếng ở mỗi phiên chuyên đề và 1 tiếng ở Phiên toàn thể. VRDF 2019 sẽ có sự tương tác mạnh giữa các diễn giả chính (keynote speakers), người thảo luận (panelists) với các đại biểu tham dự Diễn đàn.

Chỉ mới có 21% doanh nghiệp Việt Nam tham gia liên kết với chuỗi cung ứng nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa bình quân của Việt Nam mới đạt 33%, nên mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp, doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới thu được “tiền lẻ” khi tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu.

Không có cách nào khác là Việt Nam phải hành động vươn lên, phát huy nguồn nhân lực năng động, sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao trình độ để ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới, mạnh mẽ tiến lên những “nấc thang” có giá trị gia tăng cao hơn, thu được nhiều hơn khi tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu.

Nhìn rộng ra, phải chăng đây là một phương cách để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế, góp phần giúp Việt Nam nâng cao “quốc lực” để tự tin phát triển nhanh, bền vững, không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Việt Nam hiện là quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, năng suất lao động của nền kinh tế chưa cao; năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế nói chung và nhiều ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu chưa mạnh.

Nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường vẫn còn những khiếm khuyết cần phải hoàn thiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn lực và tính bền vững của phát triển. Thế giới mà chúng ta đang sống đang thay đổi rất mau lẹ với nhiều diễn biến phức tạp, mức độ cạnh tranh kinh tế, thương mại toàn cầu ngày càng cao.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự xuất hiện của nhiều công nghệ chưa từng có đang làm thay đổi mạnh cách thức kinh doanh, vận hành nền kinh tế và doanh nghiệp. Bối cảnh này đòi hỏi các nước phải rất nhanh nhạy trong nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, nếu không sẽ không bắt kịp xu thế phát triển của thời đại.

Trong bối cảnh đó, chưa nói đến việc hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng, chỉ riêng việc vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” đã là thách thức không nhỏ đối với nhiều nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam. Sẽ không thể thành công nếu không liên tục tìm tòi, sáng tạo, đổi mới tư duy, chủ động xây dựng cách thức phát triển nền kinh tế, đổi mới thể chế, cơ chế, chính sách.

Việt Nam đang tham gia chuỗi giá trị toàn cầu cả trong công đoạn trước và sau của lĩnh vực công nghiệp chế tác, nhưng mới ở mức hạn chế.

Để bước ra khỏi giới hạn trong sản xuất công nghiệp, điều đầu tiên là cần tăng tỷ trọng giá trị nội địa. Khi chuyển sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ tiên tiến trong chuỗi giá trị toàn cầu, mức độ mở cửa thương mại của nền kinh tế và kỹ năng người lao động là nhân tố quyết định.

Bên cạnh đó, chống lại sự cám dỗ của các chính sách bảo hộ, tham gia sâu vào các hiệp định thương mại sẽ làm tăng trưởng chuỗi giá trị toàn cầu của quốc gia. Ngoài ra, tiếp tục đầu tư vào nguồn nhân lực sẽ là một trong những giải pháp quan trọng cho Việt Nam trong giai đoạn tới.

Việt Nam đã từ bỏ mô hình kế hoạch hóa tập trung mà đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển kể từ Đại hội VI của Đảng. Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối công nghiệp hóa đất nước, đã công nhận cơ chế thị trường, nhưng vẫn coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước. Nhờ đó mà nước ta đã có sự phát triển ngoạn mục trong thời gian qua.

Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thành “hổ”, thành “rồng” mà nguyên nhân cơ bản nhất là Việt Nam không thúc đẩy phát triển công nghiệp thông qua các công ty, các tập đoàn tư nhân, mà lại thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Một nguyên nhân khác là không có được một bộ máy hành chính, công cụ chuyên nghiệp, nhân sự tài giỏi để hiện thực hóa chương trình công nghiệp hóa. Đây là những khiếm khuyết mà chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực để khắc phục và đồng thời phải kiên trì mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, bởi đây là sự lựa chọn đúng đắn, tối ưu cho Việt Nam.

 

So với các quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người, Việt Nam có chế độ pháp quyền tương đối tốt, đây là cơ sở để Việt Nam có thể thu hút lượng lớn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đầu tư của khu vực tư nhân vẫn thấp bởi chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động xuất khẩu trực tiếp của Việt Nam chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài đảm nhiệm.

Ngoài ra, tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực tài chính và khu vực tư nhân trong nước còn thấp. Đây là nghịch lý trong phát triển, trong khi thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam khá tốt. Nhiều nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam chủ yếu là quy mô nhỏ và gặp nhiều khó khăn để phát triển.