Trái phiếu chính phủ không hút vốn của doanh nghiệp

(BĐT) - Trong cuộc họp báo chuyên đề ngày 28/2 của Bộ Tài chính, bà Phan Thị Thu Hiền, Vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính thuộc Bộ Tài chính đã đưa ra một số thông tin liên quan đến việc hoàn thành kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) có ảnh hưởng như thế nào đến vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh.
Khối lượng phát hành trái phiếu chính phủ năm 2016 đạt 281.750 tỷ đồng. Ảnh: Huấn Anh
Khối lượng phát hành trái phiếu chính phủ năm 2016 đạt 281.750 tỷ đồng. Ảnh: Huấn Anh

Ngân hàng giảm nắm giữ TPCP

Theo bà Phan Thị Thu Hiền, lãi suất TPCP Kho bạc Nhà nước (KBNN) phát hành phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Thống kê hiện nay lãi suất huy động TPCP kỳ hạn 5 năm và 7 năm của KBNN đều dưới 6%, nên không có sự cạnh tranh đối với khu vực doanh nghiệp, vì lãi suất cho vay khu vực doanh nghiệp hiện nay là 6 - 7%.

Về việc liệu Chính phủ phát hành TPCP như hiện nay có thể ảnh hưởng gì đến vốn vay của doanh nghiệp hay không, bà Hiền cho biết, theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng cuối năm 2016 là khoảng 8,5 triệu tỷ đồng, tương đương 180% GDP. Tổng dư nợ cho vay chiếm 65% tổng tài sản, tổng dư nợ đầu tư vào TPCP của hệ thống ngân hàng là khoảng 8% trên tổng tài sản. Như vậy, kênh TPCP chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại.

Bộ Tài chính cũng cho biết, nhà đầu tư đã có sự thay đổi tích cực theo hướng tăng tỷ lệ nắm giữ trái phiếu của các nhà đầu tư dài hạn như Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Tiền gửi, doanh nghiệp bảo hiểm (tăng từ mức 23% năm 2015 lên mức 44,6% năm 2016), giảm tỷ lệ nắm giữ trái phiếu của các ngân hàng thương mại (từ mức 77% năm 2015 xuống còn 55,4% năm 2016).

Trong thời gian tới, Bộ Tài chính cũng định hướng tiếp tục đa dạng hóa các nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu. Trong đó, sẽ đổi mới cơ chế đầu tư của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam trên thị trường trái phiếu; phát triển hệ thống nhà đầu tư dài hạn như các quỹ đầu tư, hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ, tăng tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu; xây dựng lộ trình thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường trái phiếu.

Hướng tới nhà đầu tư dài hạn

Theo Bộ Tài chính, trong thời gian tới, sẽ tập trung phát triển nhà đầu tư dài hạn. Các loại TPCP kỳ hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm sẽ tiếp tục được phát hành nhằm kéo dài kỳ hạn của danh mục nợ chính phủ theo hướng bền vững; nghiên cứu triển khai sản phẩm mới như trái phiếu có lãi suất thả nổi.
Theo Bộ Tài chính, năm 2016, khối lượng phát hành TPCP đạt 281.750 tỷ đồng, tương đương 98,3% kế hoạch phát hành năm, với 91% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên (vượt mục tiêu do Quốc hội đề ra là 70% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên). Sau khi thực hiện tái cơ cấu, danh mục nợ chính phủ đã có sự cải thiện rõ rệt cả về quy mô, kỳ hạn và chi phí huy động. Cụ thể, quy mô đạt 27,3% GDP năm 2016 (năm 2015 là 16,2% GDP); kỳ hạn phát hành bình quân đạt 8,71 năm, tăng 1,73 năm so với năm 2015, qua đó kéo dài kỳ hạn bình quân của danh mục nợ chính phủ lên mức 5,98 năm vào cuối năm 2016, tăng 1,54 năm so với cuối năm 2015. Lãi suất phát hành bình quân là 6,49% (giảm từ 0,22% - 0,5% ở tất cả các kỳ hạn).

Bên cạnh các giải pháp về phát triển thị trường, Bộ Tài chính đã thực hiện tái cơ cấu thị trường trái phiếu, tái cơ cấu danh mục nợ chính phủ và tái cơ cấu cơ sở nhà đầu tư thông qua việc hoán đổi trái phiếu có kỳ hạn còn lại dưới 5 năm sang kỳ hạn dài, phát hành định kỳ TPCP kỳ hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm, 30 năm để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư dài hạn, thực hiện chuyển đổi khoản ngân sách nhà nước vay Bảo hiểm Xã hội thành phát hành trái phiếu.

Bà Phan Thị Thu Hiền cho biết, năm 2016, lần đầu tiên phát hành thành công TPCP kỳ hạn 30 năm cho nhà đầu tư nước ngoài. Quan điểm thu hút nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới là thu hút dòng vốn dài hạn, hạn chế thu hút dòng vốn ngắn hạn nhằm tránh làm ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vĩ mô.

Chuyên đề