Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH, BHYT hướng tới bao phủ toàn dân và bảo đảm an sinh bền vững

(BĐT) - Cụ thể hóa quyền được bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) của người dân được thể hiện qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, BHXH, BHYT. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sỹ Lợi đã dành cho Cổng TTĐT BHXH Việt Nam cuộc trò chuyện về vấn đề này.

PV: Với vai trò là cơ quan của Quốc hội thực hiện việc xây dựng các chính sách ASXH, trong đó có BHXH, BHYT. Việc hiến định về quyền ASXH đã được thể hiện như thế nào trong hệ thống pháp luật của nước ta thưa ông?

Phó Chủ nhiệm UBVCVĐXH Bùi Sỹ Lợi:

Như chúng ta đã biết, quyền được bảo đảm ASXH của người dân theo Hiến pháp, được thể hiện qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, BHXH, BHYT. Từ chỗ chỉ có các chính sách đơn lẻ về ASXH, đến nay chúng ta đã thiết kế được một hệ thống chính sách ASXH với các trụ cột cơ bản và được thể hiện thành các đạo luật: Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Việc làm và Bộ luật Lao động.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sỹ Lợi

Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng và Nhà nước đã đặt quyết tâm phát triển hệ thống ASXH bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần với chuẩn mức quốc tế. Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. ASXH được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện bảo đảm quyền ASXH cho mọi người dân. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH cơ bản cho người dân tại Điều 34: “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH”; Điều 59: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH”. Điều này đã cho thấy sự thay đổi quan trọng trong quan điểm, định hướng chỉ đạo thực hiện. Cách hiểu về thuật ngữ ASXH đã được bổ sung, hoàn chỉnh bằng lý luận, thực tiễn và quan trọng hơn, được hiến định là một trong những quyền của Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 cũng đã quán triệt rõ định hướng phát triển thực hiện BHYT toàn dân.

Sau khi Hiến pháp ra đời, Quốc hội đã thiết lập được khung pháp lý quy định về các tiêu chuẩn lao động, quan hệ lao động, ASXH phù hợp với thị trường lao động và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền làm việc và các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động. Thiết kế hệ thống chính sách ASXH theo hướng đa dạng, toàn diện, chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư và giữa các thế hệ; hướng tới mục tiêu bền vững, công bằng, công khai, minh bạch; phù hợp với thu nhập của người dân, khả năng huy động, cân đối nguồn lực trong từng thời kỳ. Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển và xây dựng lộ trình BHYT toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân, thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế; đổi mới cơ chế tài chính y tế theo hướng tính đúng, tính đủ, đổi mới cơ cấu đầu tư ngân sách cho y tế hướng vào đối tượng và địa bàn khó khăn.

Những nội dung về ASXH được quy định tại Hiến pháp 2013 và những quy định về BHXH, BHYT, BH thất nghiệp tại Bộ luật Lao động qua mấy lần sửa đổi đã được chỉnh sửa ngày càng hoàn thiện; đặc biệt, Bộ luật lao động 2019đã mở rộng đối tượng áp dụng cho cả khu vực không có quan hệ lao động là một sự tiến bộ vượt bậc.

Luật Việc làm (ban hành lần đầu, năm 2013) lần đầu tiên đã hướng đến khu vực kinh tế phi chính thức; tiếp tục mở rộng cơ hội cho NLĐ tham gia BH thất nghiệp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (năm 2013) chuyển từ bao phủ toàn dân sang BHYT bắt buộc đối với toàn bộ dân cư theo mô hình hộ gia đình; mở rộng sự tham gia của người dân vào BHYT; mở rộng đối tượng được Nhà nước bảo hộ một phần và toàn phần để tham gia BHYT. Luật BHXH sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham gia BHXH bắt buộc cho cả khu vực có quan hệ lao động và không có quan hệ lao động; tăng cường chế tài đối với hành vi trốn đóng BHXH; hoàn thiện chế độ BHXH tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; đề xuất giải pháp khuyến khích NLĐ khu vực phi chính thức tham gia BHXH có sự hỗ trợ của nhà nước; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.

PV: Như ông vừa nhấn mạnh, ASXH là vấn đề cốt tử của đời sống nhân dân, là biện pháp hết sức quan trọng bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của quốc gia. Xin ông cho biết, những thách thức về bảo đảm ASXH trong thời kỳ mới như thế nào?

Phó Chủ nhiệm UBVCVĐXH Bùi Sỹ Lợi:

Mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng được quốc tế và nhân dân ghi nhận trong thực hiện các chính sách ASXH nhưng vẫn còn khó khăn, vướng mắc rất đáng lưu ý. Cơ chế, chính sách chưa phù hợp còn mang nặng tính bao cấp của Nhà nước. Chiến lược ASXH chưa hướng vào mục tiêu, giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự chống đỡ của người dân. Hệ thống chính sách ASXH chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu tính liên kết và hỗ trợ, còn tồn tại những chương trình, dự án chồng chéo làm giảm hiệu quả vốn đầu tư; tính công bằng, đồng đều giữa các vùng miền còn hạn chế. Độ bao phủ của hệ thống ASXH còn thấp, đối tượng hẹp, chưa khắc phục được bất bình đẳng. Nguồn lực của Nhà nước chưa đáp ứng kịp nhu cầu, cơ chế tài chính còn bất cập, tính bền vững chưa cao. Công tác quản lý nhà nước còn bất cập, thiếu hệ thống kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả.

Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và năng lực nội tại của nền kinh tế đặt ra cho đất nước những thách thức mới trong quá trình thực hiện Chiến lược ASXH. Trước hết là chưa giải đáp toàn diện cả về lý luận và thực tiễn của hệ thống ASXH. Hai là, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, xu hướng rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và diện ảnh hưởng rộng. Ba là, xu hướng già hóa dân số tăng nhanh cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế của cách mạng công nghiệp 4.0 đang đòi hỏi quá trình phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và phát triển kinh tế, xã hội. Cuối cùng là, phân hóa xã hội ngày càng tăng, xu hướng di cư tự do ngày càng lớn, đặt ra thách thức cho hệ thống ASXH. Giải quyết những thách thức này đòi hỏi chúng ta phải tư duy trên tầm chiến lược về chính sách ASXH của Việt Nam trong giai đoạn mới, trên cơ sở đó thúc đẩy quá trình thể chế hóa, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu của thực tiễn trên lĩnh vực này.

PV: Thưa ông, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc thực hiện chính sách ASXH cho người dân trong thời gian qua. Trước những thời cơ và thách thức, để hướng tới mọi người dân đều có quyền hưởng ASXH,  BHXH, BHYT toàn dân cần phải làm gì thưa ông?

Phó Chủ nhiệm UBVCVĐXH Bùi Sỹ Lợi:

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, hệ thống chính sách, pháp luật đang đòi hỏi phải có sự đổi mới ngày càng nhanh hơn, cao hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế. Từ chỗ chỉ có các chính sách đơn lẻ về ASXH như chính sách việc làm, BHXH bắt buộc, BHYT, giảm nghèo..., đến nay chúng ta đã thiết kế được một hệ thống chính sách ASXH bao gồm 4 trụ cột cơ bản là: phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro, khắc phục rủi ro và bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu. Sự khác biệt cơ bản của các chính sách trong hệ thống ASXH so với trước đây là phạm vi bao phủ ngày càng rộng hơn và chất lượng ngày càng cao hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân.

Luật Việc làm (với chính sách BH thất nghiệp), Luật BHYT và Luật BHXH được Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ khóa XIII và Bộ luật lao động vừa thông qua năm 2019 đã tiếp tục hoàn thiện các chính sách ASXH quan trọng này. Trong thời gian tới, các chính sách này vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để tăng độ bao phủ an sinh cho NLĐ, người dân, đặc biệt là NLĐ làm việc trong khu vực phi chính thức, nông dân. Bên cạnh đó là tăng cường tuân thủ tham gia bảo hiểm ở nhóm bảo hiểm bắt buộc thì sẽ có thêm khoảng 6 triệu lao động thuộc khu vực chính thức sẽ tham gia bảo hiểm; thúc đẩy việc tiếp cận tạo cơ hội, điều kiện tham gia BHXH tự nguyện cho khoảng 30 triệu lao động là nông dân, người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức; bố trí ngân sách nhà nước để hỗ trợ tăng thêm cho các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện nhằm tạo cơ chế khuyến khích người lao động khu vực không có quan hệ lao động tham gia chính sách này; tăng cường thông tin, truyền thông, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện, đặc biệt là nông dân; cải cách công tác quản lý BHXH, thủ tục tham gia, thụ hưởng BHXH, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH, tổ chức hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra để khắc phục tồn tại có hiệu quả, giảm mạnh số tiền nợ đọng, trốn đóng, chiếm dụng BHXH của người lao động; tăng cường trách nhiệm, hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, UBND các cấp trong việc quản lý thu, chi, bảo toàn, phát triển, cân đối quỹ BHXH, quản lý tốt đối tượng tham gia BHXH và xây dựng, thực hiện chỉ tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH hằng năm và lộ trình, kế hoạch cụ thể để phấn đấu đạt mục tiêu BHXH toàn dân.

Cùng với việc mở rộng diện bao phủ, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chính sách an sinh cũng là thách thức, và là mục tiêu trọng tâm của việc hoạch định chính sách trong thời gian tới. Nó đặt ra nhiều yêu cầu cụ thể với từng loại hình bảo hiểm.

Một vấn đề rất quan trọng tiếp theo là phải đổi mới công tác quản lý BHXH, BHYT, BH thất nghiệp theo hướng hiện đại hóa, trong đó phải ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình, thủ tục tham gia BHXH, BHYT, BH thất nghiệp để doanh nghiệp, người dân tiếp cận nhanh chóng, thuận tiện các dịch vụ này và giảm được số thời gian phải thực hiện các thủ tục, giao dịch của doanh nghiệp.

Chiến lược ASXH phải tiếp tục được bổ sung, mở rộng và cơ cấu lại cho phù hợp với các nhóm chính sách cụ thể. Đó là nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro nhằm hỗ trợ tạo việc làm có thu nhập và chủ động tham gia thị trường lao động. Nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; thực hiện bảo hiểm sản phẩm nông nghiệp cho người dân; bù đắp thu nhập khi người lao động bị suy giảm hoặc mất sức lao động. Và nhóm chính sách khắc phục rủi ro nhằm trợ giúp xã hội, giảm nghèo bền vững, tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Trên cơ sở cấu trúc đó, Nhà nước thiết kế các chính sách ASXH mang tính hệ thống, lồng ghép, linh hoạt, đa dạng, phù hợp với các nhóm đối tượng ở các cấp độ tác động khác nhau. Tính kết nối trong toàn bộ hệ thống chính sách ASXH theo hiến định sẽ tăng hiệu quả và cho phép Nhà nước lựa chọn ưu tiên các chính sách, các nhóm đối tượng phù hợp với điều kiện KT-XH, đời sống của người dân trong từng giai đoạn cụ thể.

Đối với một quốc gia có tới gần 70% lực lượng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và nông nghiệp, các chính sách ASXH của Việt Nam trong thời gian tới phải quan tâm tới nhu cầu ASXH ngày càng lớn của nhóm này. Do vậy, phải từng bước mở rộng và bảo đảm ASXH đồng thời phải gắn với việc phát triển việc làm, thu nhập thỏa đáng, trình độ tay nghề, chuyên môn, cải thiện điều kiện, môi trường làm việc cho người lao động để họ có cơ hội và điều kiện chuyển sang khu vực lao động chính thức trong nền kinh tế. Đây là mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng, sửa đổi các đạo luật trong lĩnh vực xã hội như: Luật Việc làm; Luật BHYT; Luật BHXH sắp tới.

BHXH Việt Nam cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp - trụ cột chính của hệ thống ASXH. Trong suốt 25 năm qua, Ngành đã và đang có nhiều nỗ lực, cố gắng để tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH, BHYT và đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần phát triển an sinh xã hội bền vững, ổn định đời sống của Nhân dân, từng bước đem lại sự hài lòng cho người dân.

Nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Ngành, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới toàn thể cán bộ, CCVC, NLĐ ngành BHXH; chúc toàn ngành BHXH ngày càng đổi mới và phát triển toàn diện, bền vững!

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Chuyên đề