Quản lý và xử lý rủi ro đối với nợ công

(BĐT) - Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định về nghiệp vụ quản lý nợ công bao gồm: Công cụ quản lý nợ công, quản lý và xử lý rủi ro đối với nợ công; theo dõi, đánh giá an toàn bền vững nợ công, hạch toán kế toán, kiểm toán, thống kê, cơ sở dữ liệu, báo cáo và công bố thông tin về nợ công.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Dự thảo quy định rõ về quản lý và xử lý rủi ro đối với nợ công. Theo đó, mục tiêu quản lý rủi ro là tối ưu hóa cơ cấu nợ công, đảm bảo nghĩa vụ trả nợ và nâng cao hiệu quả hoạt động công tác quản lý nợ công; đảm bảo không làm tăng nghĩa vụ nợ công đã được xử lý so với khoản nợ ban đầu đưa ra xử lý quy về giá trị hiện tại ở thời điểm xử lý rủi ro; giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra trong tình huống xấu nhất với chi phí phát sinh hợp lý.

Việc xử lý rủi ro chỉ áp dụng cho các nguyên nhân khách quan. Việc phòng ngừa và xử lý rủi ro phải căn cứ vào thoả thuận vay hoặc công cụ nợ gốc trong danh mục nợ công hiện hành, nguyên nhân phát sinh rủi ro, phù hợp với quy định pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Các khoản nợ công bị rủi ro do các nguyên nhân chủ quan thì tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất phải chịu trách nhiệm xử lý và bồi thường theo quy định của pháp luật.

Về nguyên nhân rủi ro, nguyên nhân khách quan bao gồm: Thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh xảy ra làm thiệt hại trực tiếp đến các chương trình, dự án sử dụng vốn vay thuộc danh mục nợ công; điều chỉnh cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô, sự thay đổi các điều kiện về chính trị, pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và nghĩa vụ nợ công; những tác động của kinh tế thế giới và khu vực, biến động của thị trường vốn quốc tế, quá trình tự do hóa tài chính, tiền tệ và hội nhập quốc tế…

Nguyên nhân chủ quan bao gồm: Sử dụng vốn vay sai mục đích và cố ý làm trái quy định; người vay, người vay lại và người được bảo lãnh thiếu thiện chí, cố tình chây ì trong việc hoàn trả các nghĩa vụ nợ đến hạn theo đúng các điều kiện, điều khoản của thỏa thuận vay hoặc phát hành công cụ nợ.

Xử lý rủi ro tín dụng

Dự thảo nêu rõ, việc xử lý rủi ro tín dụng phải được xem xét từng trường hợp cụ thể căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến rủi ro, mức độ rủi ro và khả năng trả nợ của đối tượng vay lại, đối tượng được bảo lãnh.  Khi có phát sinh nợ gốc, lãi quá hạn thì phải thực hiện việc đánh giá lại khả năng trả nợ của đối tượng vay lại, đối tượng được bảo lãnh.

Việc xử lý rủi ro tín dụng phải đáp ứng ít nhất một trong các điều kiện: Chương trình, dự án đầu tư thuộc phạm vi được vay vốn theo quy định, đã sử dụng vốn vay đúng mục đích; người vay lại, người được bảo lãnh Chính phủ bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan làm mất một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản; người vay lại, người được bảo lãnh gặp khó khăn về tài chính dẫn đến chưa có khả năng trả được nợ hoặc không trả được nợ.

Các khoản nợ vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, được Chính phủ bảo lãnh được phân loại định kỳ và tổng hợp theo các nhóm căn cứ vào tình trạng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của đối tượng được vay lại, đối tượng được bảo lãnh Chính phủ. Việc phân loại các khoản nợ thực hiện theo quy định của Nghị định về quản lý cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ và Nghị định về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ.

Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan có liên quan tổ chức theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện các công cụ quản lý nợ, tình hình huy động, sử dụng và trả nợ thuộc cơ quan, đơn vị quản lý.

Chuyên đề