Ủy ban TCNS đề nghị bổ sung số liệu cụ thể về nợ thuế của các thành phần kinh tế. Ảnh minh họa: Internet |
Tránh quy định tạo kẽ hở
Lý do để Ủy ban TCNS đưa ra điều này là vì hiện nay đang trong tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Đồng thời, Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ bổ sung bảng biểu, số liệu về tình hình nợ thuế, cụ thể là phân loại theo hình thức sở hữu (hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI…); theo thẩm quyền xóa nợ thuế (Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); theo đối tượng xóa nợ (tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt chậm nộp…)…
Về không tính tiền chậm nộp, theo Tờ trình của Chính phủ, phạm vi, đối tượng và nội dung xử lý đều là những trường hợp tồn tại không thể thu nợ được do nguyên nhân khách quan đã phát sinh trước khi ban hành Nghị quyết.
Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, việc quy định không tính tiền chậm nộp tại dự thảo Nghị quyết có thể được hiểu đây là các đối tượng sẽ không tính tiền chậm nộp sau ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành.
Thực tế các đối tượng này là đối tượng nợ tiền thuế và đã được tính tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế hiện hành trước thời điểm 01/01/2019.
Do đó, Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, nếu thực sự cần thiết thì chỉ cho phép xóa tiền chậm nộp đối với các trường hợp này kể từ thời điểm được cơ quan chức năng tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc đang làm thủ tục giải thể, phá sản và không tính tiền chậm nộp đối với các trường hợp này từ ngày 01/01/2019.
Về quy định “Người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh ....”, Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, quy định như dự thảo Nghị quyết sẽ có kẽ hở cho người nộp thuế lợi dụng, bỏ địa điểm kinh doanh đã đăng ký và chuyển trụ sở sang địa điểm kinh doanh ở địa bàn khác hoặc có thể thành lập pháp nhân mới ở địa chỉ khác để trốn thuế.
Trong trường hợp rủi ro, bị cơ quan nhà nước phát hiện sau nhiều năm và đề nghị truy thu số thuế nợ vẫn chỉ bằng số thuế khi bỏ địa chỉ kinh doanh. Do đó, đề nghị cần cân nhắc việc xóa nợ hoặc miễn thu tiền chậm nộp đối với các đối tượng này.
Cần nêu rõ trường hợp bất khả kháng
Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, hiện nay dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) cũng quy định về các trường hợp bất khả kháng, do đó đề nghị cần quy định rõ các trường bất khả kháng tại dự thảo Nghị quyết.
Đồng thời, đề nghị rà soát các đối tượng được xóa tiền chậm nộp hoặc tiền phạt chậm nộp tại điều này để bảo đảm tính trung lập của thuế, hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách về an sinh xã hội trong các chính sách về thuế.
Ngoài ra, Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị cần nghiên cứu, rà soát việc xóa nợ đối với khoản thu từ đất để tránh việc lợi dụng, gây thất thu ngân sách nhà nước, vì việc quy định như dự thảo Nghị quyết chỉ loại trừ đối với khoản thu tiền sử dụng đất, trong khi các khoản thu từ đất là rất rộng (thuế sử dụng đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất...).
Về thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp hoặc tiền chậm nộp, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị cần rà soát để bảo đảm phù hợp với dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) về thẩm quyền xóa nợ thuế.
Theo đó, đề nghị bỏ trường hợp đặc biệt báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét trước khi Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định. Đồng thời, quy định Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xóa nợ đối với số tiền thuế nợ từ 10 tỷ đồng trở lên; Tổng cục trưởng Tổng cục thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan xoá nợ đối với số tiền thuế nợ từ 5 tỷ đồng trở lên đến dưới 10 tỷ đồng; bỏ thẩm quyền xóa nợ của Cục trưởng Cục thuế, Cục trưởng Cục Hải quan...