Đằng sau mức giá ngân hàng bằng 0

(BĐT) - Tiền gửi ngân hàng không được hưởng lãi suất, thậm chí cho vay với lãi suất âm không phải là dị thường và hy hữu trên thế giới. Nhưng năm 2015 chứng kiến lần đầu tiên trong 30 năm lịch sử ngân hàng Việt Nam thời đổi mới và hội nhập, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện chính sách không cho tiền gửi bằng USD được hưởng lãi suất.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Kiều hối có bị tác động?

Việc hạ lãi suất tiền gửi USD là hợp lý nhằm nhất quán thực hiện chủ trương của Chính phủ về chống đô la hóa và hỗ trợ trực tiếp cho việc chuyển từ quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ, sang quan hệ mua - bán bằng ngoại tệ, giảm tích trữ ngoại tệ từ doanh nghiệp và cá nhân. Điều chỉnh này của NHNN còn dựa trên thực tế Việt Nam có xuất siêu khoảng 500 triệu USD trong tháng 10/2015 và tiếp tục xuất siêu khoảng 260 triệu USD trong tháng 11/2015. Giải ngân vốn FDI thực hiện tăng trên 17% so với cùng kỳ; dòng kiều hối tiếp tục đổ vào Việt Nam. Huy động tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức cũng như cá nhân tại các ngân hàng vẫn tăng trong 2 tháng sau khi NHNN hạ lãi suất tiền gửi USD trong tháng 9/2015. Ngoài ra, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn vào ra của Việt Nam.

Việc hạ lãi suất tiền gửi ngoại tệ với cá nhân về 0% hy vọng ít gây tác động tiêu cực tới kiều hối, nhất là kiều hối vào Việt Nam nhằm 2 mục đích chính là trợ cấp cho thân nhân và đầu tư, chứ không nhằm hưởng chênh lệch lãi suất USD trên thị trường trong và ngoài nước.

Thực tế cho thấy, mặc dù lãi suất tiền gửi USD đã giảm từ tháng 9/2015, nhưng huy động ngoại tệ trên địa bàn TP.HCM vẫn tăng đều trong các tháng sau đó. Nhiều tổ chức, cá nhân vẫn giữ ngoại tệ, chứ không bán để chuyển thành tiền đồng như kỳ vọng của NHNN là có những lý do riêng, không hoàn toàn vì lãi suất. Đặc biệt, nếu kéo dài tình trạng lãi suất tiền gửi USD bằng 0%, trong khi lãi suất tiền gửi bằng USD trên thế giới lại tăng, nhất là sau động thái điều chỉnh lãi suất lên mức 0,25 - 0,5% của FED vừa qua, không loại trừ sẽ xuất hiện nguy cơ dòng chảy ngược USD ra nước ngoài để gửi vào các ngân hàng quốc tế có lãi suất tiền gửi USD và độ tin cậy cao hơn trong nước. Khi đó, mục tiêu tăng cung USD sẽ khó đạt và căn cứ để hạ lãi suất tiền gửi USD có thể phải cân nhắc lại. Vì vậy, NHNN cũng cần có kịch bản chủ động cho phương án xử lý các hệ lụy có thể xảy ra khi đồng thời hạ trần lãi suất tiền gửi USD của cả tổ chức và cá nhân. 

Mua lại ngân hàng với giá 0 đồng là cần thiết

Trong năm 2015, lần đầu tiên NHNN đã liên tiếp mua lại 3 ngân hàng thương mại (NHTM) với giá 0 đồng là Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam – VNBC; Ngân hàng TMCP Đại Dương - OceanBank và Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu - GPBank. Theo đánh giá, trong bối cảnh hiện nay, việc NHNN mua lại 3 NHTM này với giá 0 đồng là cần thiết để giữ ổn định vĩ mô, cũng như bảo vệ người tiêu dùng, trong bối cảnh thị trường tài chính có độ nhạy cảm cao và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi NHTM thấp (không quá 50 triệu đồng/người) như hiện nay.

Cái được lớn nhất và vô giá của giải pháp này là giữ được sự ổn định vĩ mô, không có sự hoảng loạn tâm lý đám đông nguy hiểm và làn sóng rút tiền hàng loạt dễ gây đổ vỡ toàn hệ thống thống NHTM với những hệ lụy khó lường khác…

Việc NHNN mua lại các NHTM với giá 0 đồng vẻ ngoài như một hoạt động “quốc hữu hóa” mà một số nước phát triển từng dùng đối với một số công ty tư nhân yếu kém, tuy nhiên, nếu kéo dài và lạm dụng giải pháp này dễ gây tâm lý ỷ lại nguy hại cho quản lý hệ thống NHTM tương lai; đồng thời, dễ gây áp lực tăng nợ công như là hệ lụy “hậu mua lại với giá 0 đồng” trong thời gian tới nếu không đòi được nợ cũ và cải thiện được hoạt động kinh doanh của các NHTM bị mua lại này.

Nói cách khác, mua lại NHTM với giá 0 đồng là cần thiết, nhưng không thể áp dụng đại trà như một biện pháp kéo dài trong tương lai vì dễ gây lạm dụng, tiềm ẩn nhiều rủi ro và đầy trở ngại gắn với khả năng xác định đúng đắn tình hình tài chính, giá trị thương hiệu, tình trạng pháp lý và tài sản của NHTM bị mua lại, nhất là các khoản nợ xấu. Nếu chuẩn bị không kỹ và quản lý quá trình NHTM sau mua lại không tốt, sẽ có thể tái tạo làn sóng rút tiền mất kiểm soát, đổ vỡ lòng tin thị trường, hoặc bị lợi dụng “đục nước béo cò”, đầu cơ, tham nhũng, lợi ích nhóm, thất thoát tài sản công và các tiêu cực khác…

Năm 2015 là năm Việt Nam thu được nhiều thành công vượt trội so với 4 năm qua, nhất là về tăng trưởng GDP, kiểm soát lạm phát, nợ xấu và phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập quốc tế… Tuy nhiên, năm 2015 cũng là năm có nhiều hiện tượng “lần đầu tiên”, mà tiêu biểu là chính sách mua lại NHTM với giá 0 đồng và đưa lãi suất tiền gửi bằng USD của cả tổ chức và cá nhân về 0% như đã nêu trên.

Mọi chính sách luôn có độ trễ, tính hai mặt và những thử nghiệm chính sách lần đầu thường chứa đựng rủi ro cao. Vì vậy, tiếp tục lắng nghe các tín hiệu thị trường, mở rộng phản biện và linh hoạt trong điều hành chính sách, bảo đảm hài hòa các lợi ích và chủ động có kịch bản xử lý những tác động mặt trái, tránh bị lạm dụng và bất ngờ là cần thiết, để các mục tiêu tốt được hiện thực hóa tối đa, các hệ lụy trái chiều được sớm nhận diện và khắc phục hiệu quả.                                  

Chuyên đề