Cơ quan thuế tiếp cận tài khoản ngân hàng: Lo lộ bí mật của người nộp thuế

(BĐT) - Thông tin về mở tài khoản, số tài khoản và mã số thuế của người nộp thuế là những nội dung mà ngân hàng phải cung cấp cho cơ quan thuế. Đề xuất này tại Dự thảo Luật Quản lý thuế vẫn gây lo ngại về tính bảo mật thông tin cá nhân và bí mật kinh doanh.
Việc cơ quan thuế tiếp cận tài khoản ngân hàng gây lo ngại về tính bảo mật thông tin cá nhân và bí mật kinh doanh. Ảnh: Nhã Chi
Việc cơ quan thuế tiếp cận tài khoản ngân hàng gây lo ngại về tính bảo mật thông tin cá nhân và bí mật kinh doanh. Ảnh: Nhã Chi

Chia sẻ thông tin theo cơ chế chủ động

Theo quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành, ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài khoản, nội dung giao dịch qua tài khoản theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế.

Ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế thuộc Tổng cục Thuế cho biết, thông thường, khi người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm về thuế thì cơ quan thuế yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản và nội dung giao dịch để thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm yêu cầu người nộp thuế tuân thủ nghĩa vụ thuế.

Nhằm tăng cường công tác quản lý thuế, Dự thảo Luật Quản lý thuế đã hoàn thiện quy định này như sau: Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng là người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế, chỉ bao gồm thông tin về mở tài khoản, số tài khoản cùng với mã số thuế của người nộp thuế.

Theo ông Huy, nội dung này được đề xuất từ tình huống đã phát sinh trong thực tế là một người nộp thuế có nhiều tài khoản ngân hàng nhưng chỉ cung cấp một tài khoản và khi cơ quan thuế cần cưỡng chế thuế thì tài khoản đó không có tiền và không biết người nộp thuế có tiền ở tài khoản nào.

Về mục đích của việc cung cấp thông tin về số tài khoản của người nộp thuế, vị vụ trưởng này cho hay, là nhằm giảm thiểu thủ tục cho người nộp thuế, chia sẻ thông tin giữa cơ quan quản lý thuế và các bên liên quan theo cơ chế tự động. “Hiện cơ quan thuế đang quản lý cơ sở dữ liệu về tài khoản của hàng trăm ngàn doanh nghiệp nhưng chưa phát sinh trường hợp có ảnh hưởng đến việc bảo mật thông tin của ngân hàng”, ông Huy nói.

Đồng tình với nội dung này tại Dự thảo Luật, PGS. TS. Ngô Trí Long nêu quan điểm, việc cung cấp thông tin tài khoản cho cơ quan thuế là nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý thuế hiệu quả. “Với quy định hiện nay, doanh nghiệp chỉ đăng ký một tài khoản với cơ quan thuế. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ thuế thì bị phong tỏa tài khoản nhưng tài khoản đăng ký với cơ quan thuế không phải tài khoản chính thì việc phong tỏa cũng không có ý nghĩa”, ông Long nói. 

Băn khoăn về bí mật kinh doanh và bí mật cá nhân

Trong khi đó, không thống nhất về nội dung này, chuyên gia kinh tế - TS. Vũ Đình Ánh cho rằng, nên giữ như quy định cũ bởi việc cơ quan thuế biết được thông tin về tài khoản của người nộp thuế có thể vi phạm quyền bí mật kinh doanh và quyền giữ bí mật cá nhân.

 “Nếu cơ quan thuế có bằng chứng chứng minh doanh nghiệp hoặc cá nhân có sai phạm về thuế, họ hoàn toàn có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản để tiến hành truy thu thuế. Thực tế, điều này không hề khó, khi phát sinh vụ việc, Trung tâm Thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nắm trong tay số tài khoản ngân hàng của người nộp thuế và có thể cung cấp nhanh chóng. Việc đòi hỏi cung cấp thông tin phải có mục đích rõ, còn nếu bắt ngân hàng cung cấp thông tin cá nhân khi không vi phạm là không hợp lý”, ông Ánh nói.

Xem xét từ việc quản lý thuế qua dòng tiền thanh toán, vị chuyên gia này cho rằng, nếu cơ quan thuế muốn đẩy mạnh việc quản lý dòng tiền trong giao dịch, đặc biệt là giao dịch thương mại điện tử để tránh thất thu thuế, cơ quan thuế nên tiếp cận từ góc độ giám sát các giao dịch và nắm thông tin về các giao dịch thanh toán chứ không phải là thông tin tài khoản. “Điều này là khác với việc tiếp cận thông tin tài khoản”, ông Ánh nhấn mạnh. 

Liên quan đến bảo mật thông tin của người nộp thuế, ông Lưu Đức Huy cho biết, việc cơ quan thuế đảm bảo giữ bí mật thông tin của người nộp thuế bao gồm thông tin về tài khoản ngân hàng là phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng và pháp luật về an toàn thông tin mạng.

Mặt khác, việc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng cho cơ quan thuế cũng được tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Đó là, mẫu Luật Quản lý thuế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế); Luật Quản lý thuế của Hungary và báo cáo của OECD (Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển) về cải thiện quyền truy cập vào thông tin ngân hàng cho mục đích thuế. Theo đó, đa số các nước đều quy định các ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan thuế biết về việc mở các tài khoản của người nộp thuế cùng mã số thuế do cơ quan thuế cấp.

Chuyên đề