Công bố quyết định thanh tra chậm nhất là 15 ngày

Là một trong những nội dung được đề cập tại Quyết định số 1404/QĐ-TCT về việc ban hành quy trình thanh tra thuế của Tổng Cục Thuế.
Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet

Giải thích để NNT được thanh tra hiểu rõ

Sau khi quyết định thanh tra được ban hành, trưởng đoàn thanh tra (ĐTT) có trách nhiệm thông báo (bằng các hình thức như: Điện thoại; email; trường hợp cần thiết bằng văn bản) cho đại diện người nộp thuế (NNT) về kế hoạch công bố quyết định thanh tra gồm: Thời gian, thành phần tham dự công bố quyết định thanh tra.

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng ĐTT có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với NNT trừ trường hợp được chấp nhận bãi bỏ quyết định thanh tra, hoãn thanh tra thực hiện theo quy định tại tiết g, điểm 1.2, mục II, phần B của quy trình.

Khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng ĐTT phải giải thích về nội dung quyết định thanh tra để NNT được thanh tra hiểu rõ và có trách nhiệm chấp hành quyết định thanh tra; giới thiệu các thành viên của ĐTT; nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTT, thời hạn thanh tra, quyền và trách nhiệm của NNT, dự kiến kế hoạch làm việc của ĐTT với NNT; yêu cầu NNT báo cáo các nội dung liên quan đến việc triển khai thanh tra mà ĐTT thấy cần thiết.

Trường hợp phạm vi thanh tra bao gồm cả các đơn vị thành viên thì Trưởng ĐTT thông báo cụ thể thời gian làm việc với từng đơn vị. Việc công bố phải được lập thành biên bản. Biên bản phải có chữ ký của Trưởng ĐTT và người đại diện theo pháp luật của NNT theo mẫu (số 05/KTTT ban hành theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 6/11/2013 của Bộ Tài chính). Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc cuộc thanh tra tại nơi được thanh tra.

Trưởng ĐTT và các thành viên ĐTT yêu cầu NNT cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến nội dung được thanh tra như: Sổ kế toán, chứng từ kế toán, thuyết minh báo cáo tài chính... Đối với những thông tin tài liệu, số liệu NNT đã nộp cho cơ quan thuế theo qui định hiện hành như: Tài liệu, hồ sơ về đăng ký, kê khai, nộp thuế, báo cáo sử dụng hóa đơn... thì ĐTT không yêu cầu NNT cung cấp mà khai thác, tra cứu tại cơ quan thuế để phục vụ cho việc thanh tra.

Trường hợp NNT thực hiện kế toán trên máy vi tính bằng phần mềm kế toán thì ĐTT yêu cầu cung cấp sổ kế toán được lưu trữ trên các dữ liệu điện tử đọc được bằng các phần mềm văn phòng thông dụng, có nội dung như bản NNT phải in ra để lưu trữ theo qui định, mà không yêu cầu in ra giấy.

Trưởng ĐTT và các thành viên trong ĐTT không được yêu cầu NNT cung cấp các thông tin tài liệu không liên quan đến nội dung thanh tra; thông tin tài liệu thuộc bí mật của Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. ĐTT có trách nhiệm kiểm đếm, bảo quản, khai thác, sử dụng tài liệu đúng mục đích, không để thất lạc tài liệu.

Đối thoại, chất vấn phải được lập biên bản

ĐTT căn cứ sổ kế toán, hồ sơ, tài liệu do NNT cung cấp và hồ sơ khai thuế mà NNT đã gửi Cơ quan Thuế để xem xét, đối chiếu các tài liệu do NNT cung cấp với tài liệu hiện có tại Cơ quan Thuế; đối chiếu số liệu ghi chép trên chứng từ kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo giải trình để phát hiện chênh lệch tăng hoặc giảm so với hồ sơ khai thuế; đối chiếu với các quy định của Luật thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành của từng thời kỳ tiến hành thanh tra để xác định việc chấp hành pháp luật thuế của NNT; sử dụng nghiệp vụ để tiến hành thanh tra các nội dung cần thanh tra.

Đối với những sự việc, tài liệu phản ánh chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết luận ĐTT chuẩn bị chi tiết nội dung yêu cầu NNT giải trình bằng văn bản. Trường hợp giải trình bằng văn bản của NNT chưa rõ ĐTT tổ chức đối thoại, chất vấn NNT để làm rõ nội dung và trách nhiệm của tập thể, cá nhân. Cuộc đối thoại, chất vấn phải được lập biên bản theo mẫu có chữ ký của Trưởng ĐTT và người đại diện theo pháp luật của NNT, trường hợp cần thiết được ghi âm.

Trong trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra để làm căn cứ cho việc kết luận thanh tra, Trưởng ĐTT phải báo cáo lãnh đạo bộ phận thanh tra để trình lãnh đạo cơ quan thuế quyết định trưng cầu giám định. Việc giám định được thực hiện theo quy định của pháp luật về trưng cầu giám định. Khi có kết quả giám định, Trưởng ĐTT phải công bố cho NNT được biết.

Khi xét thấy cần bảo đảm nguyên trạng tài liệu, Trưởng ĐTT có quyền quyết định niêm phong một phần hoặc toàn bộ tài liệu có liên quan đến nội dung thanh tra. Quyết định niêm phong tài liệu được ban hành theo mẫu và kèm theo biên bản niêm phong. Biên bản phải có chữ ký người đại diện theo pháp luật của NNT và ĐTT theo mẫu. Thời hạn niêm phong không được vượt quá thời hạn kết thúc cuộc thanh tra. Việc khai thác tài liệu niêm phong phải được sự đồng ý của Trưởng ĐTT.

Khi không cần thiết áp dụng biện pháp niêm phong nữa thì người ra quyết định niêm phong phải ra quyết định hủy bỏ biện pháp niêm phong và lập biên bản về danh mục tài liệu hủy bỏ niêm phong. Biên bản phải có chữ ký người đại diện theo pháp luật của NNT và Trưởng ĐTT. Quyết định hủy bỏ niêm phong và Biên bản hủy bỏ niêm phong ban hành kèm theo quy trình này.

Trong quá trình thực hiện quyết định thanh tra, ĐTT thấy cần thiết phải kiểm kê tài sản để đối chiếu giữa sổ sách, chứng từ kế toán với thực tế thì Trưởng ĐTT có quyền quyết định kiểm kê tài sản trong phạm vi nội dung của Quyết định thanh tra thuế. Việc kiểm kê phải ra quyết định kiểm kê theo mẫu của Bộ Tài chính và lập biên bản ghi rõ thành phần tham dự, địa điểm tiến hành, tên, số lượng, tình trạng tài sản theo mẫu của Bộ Tài chính.

Khi xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp kiểm kê tài sản thì người ra quyết định kiểm kê phải ra quyết định hủy bỏ ngay biện pháp đó; trường hợp phải tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép thì ĐTT thực hiện trình tự, thủ tục về tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép theo qui định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn hiện hành.

Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công, các thành viên ĐTT tiến hành lập biên bản xác nhận số liệu thanh tra với NNT ban hành kèm theo quy trình này. Biên bản xác nhận số liệu thanh tra là một trong những căn cứ để ĐTT lập biên bản thanh tra.

Trong trường hợp thực hiện nội dung quyết định thanh tra có các đơn vị thành viên thì kết thúc thanh tra tại mỗi đơn vị, ĐTT phải lập biên bản thanh tra đối với từng đơn vị. Biên bản thanh tra với từng đơn vị làm căn cứ để ĐTT lập biên bản tổng hợp kết quả thanh tra.

Chuyên đề